Wednesday, November 5, 2014

Sự kết tập Kinh điển quên lãng niên đại lịch sử

Sự kết tập Kinh điển quên lãng niên đại lịch sử
Enlarge font

Stephen Batchelor, tác giả của quyển sách Tuyên Bố của Người Phật tử Bất Khả Tri, kể chuyện chưa từng được nói đến về cuộc đời của Đức Phật.
HỎI: Điều gì đã làm cho ông bắt đầu nghiên cứu về một Đức Phật thật sự?
BATCHELOR: Sự quan tâm của tôi là điều thúc đẩy bằng một đề án đã đưa tôi lần đầu tiên đến những nơi mà Đức Phật đã sống và giảng dạy - Shravasti, Kusinagar, Gaya, Vaishali, Rajgir, Boddhgaya[1] .  Lần đầu tiên, tôi đã có một cảm giác địa lý rõ ràng về thế giới của Đức Phật.  Nó đã tạo nên một khuôn thức nào đấy mà trong ấy tôi đã bắt đầu đọc lại tam tạng Pali.  Tôi đã bắt đầu nhìn vào kinh luận trong một ánh sáng khác.  Cho đến lúc ấy, giống như nhiều Phật tử, tôi đã có một ý tưởng mơ hồ về vấn đề cuộc đời thật sự của Đức Phật được phơi bày ra như thế nào.  Tam tạng Pali giống như một khung cửa sổ mở ra cho tám mươi năm lịch sử ban sơ của Ấn Độ, kinh điển lịch sử thật sự đầu tiên.  Trong những cung cách nào đấy nó trình bày một thế giới loài người, một thế giới mà Thượng đế hay thần linh không thật sự nổi bật và con người của nó đang vật lộn để kiểm soát số phận của họ.  Tôi cũng đã bắt đầu thấy thế giới của Đức Phật trong dạng thức của sự phát triển của chính trị và kinh tế vào lúc ấy.  Càng đọc tôi càng cố để kết nối những mãng lịch sử với nhau, đặc biệt từ lúc Ngài giác ngộ đến khi niết bàn.  Tôi đã cố gắng để tỉnh thức hơn với những con người hiện diện trong những mãng này của lịch sử.  Và một cách chậm rãi tôi đã có thể kết nối chúng với nhau thành một câu chuyện.

HỎI: Nếu những chi tiết mà ông khám phá ra về đời sống của Đức Phật và niên đại là ở trong tam tạng Pali, tại sao nó ít được biết đến một cách rõ ràng?
BATCHELOR: Một trong những lý do về câu chuyện của Ngài đã không được biết rõ ràng là bởi vì những sự kết tập kinh điển không quan tâm trong những chi tiết.  Chúng chỉ được quan tâm trong việc bảo tồn Pháp bảo -- những lời dạy của Đức Phật.  Người ta sắp xếp tam tạng không theo trình tự và niên đại mà tùy theo sự dài ngắn của kinh điển.  Vì thế chúng ta có:  Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh, Tạp Bộ Kinh và Tiểu Bộ Kinh.  Bằng việc phân chia tam tạng như thế, người ta đã vô tình phá tan bất cứ ý nghĩa nào của niên đại lịch sử.  Chỉ trong một vài kinh điển, mà trong ấy chúng ta thật sự có thể có một mãng liên tục tường thuật của một câu chuyện thật sự. Nhưng khi chúng ta đặt tất cả những mãng nhỏ của lịch sử, rút ra từ nguồn gốc quan trọng của kinh điển, chúng ta thấy rằng những mãng lịch sử nhỏ không bị bó buộc -- không chỉ vì bố cục --  mà vì sự hình thành của toàn bộ kết cấu.   Tất cả chúng hợp lý với nhau, ngay cả những đặc trưng lịch sử nhỏ nhoi được miêu tả sinh động một cách liên tục.  Ở đấy những sự hiện hữu bị chôn vùi trong tam tạng Pali, khoảng năm hay sáu nghìn trang khi phiên dịch, nhiều mãng nhỏ của một bức tranh cưa lọng.  Chúng ta đặt chúng với nhau và chúng ta có một bức tranh.  Không đầy đủ một cách toàn bộ, nhưng cũng đủ để hình dung.

HỎI: Và bức tranh là gì?
BATCHELOR: Bức tranh thông thường mà mọi người có về Ngài là vị hoàng tử này người lớn lên trong một cung điện, từ bỏ tất cả và trở thành một vị Phật, rong ruỗi mọi nơi và ban bố những lời thuyết giảng diệu kỳ và hàng trăm tu sĩ tháp tùng Ngài trong những chuyến du hành.  Ngài dạy và dạy và rồi đến một ngày Ngài nằm xuống và viên tịch.  Họ không nghĩ nhiều đến sự giác ngộ, nhưng Ngài có một trách vụ để đạt đến sau đấy: thiết lập sự giáo hóa của Ngài và Tăng đoàn, cộng đồng tu sĩ.  Ngài nói về điều này trong một số trường hợp.  Những điều này là sứ mệnh trong đời sống của Ngài.  Nhằm để làm thế, Ngài không thể chỉ rong ruỗi với tăng đoàn một nơi nào đấy ở Hy mã lạp sơn.  Ngài phải có thể tìm ra những tình cảnh, nơi mà Ngài sẽ phải lui tới toại nguyện với sự phong phú, và nơi mà Ngài cũng có thể có một sự bảo đảm an toàn.  Chỉ những nơi mà điều này có thể được cung cấp trong bất cứ mức độ nào là những thành phố nổi bật:  Rajgir, Shravasti và đến một mức độ kém hơn là Vaishali.  Ngài cũng phải đối diện với một thế giới rất xung đột, rắc rối, bạo động, và độc ác với những vị vua và những triều đại mới nổi lên và những đội quân đang lớn mạnh.
Chúng ta biết từ kinh điển rằng Ngài đã sống rất thọ -- viên tịch lúc tám  mươi tuổi.  Và chúng ta cũng biết Ngài liên hệ một cách năng động trong giảng dạy.  Và những giáo huấn của Ngài không hạn chế quanh quẩn trong tăng ni sống trong tu viện mà đã biểu lộ tất cả mọi trình độ của xã hội, từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở, trong một thời điểm của lịch sử Ấn Độ nơi có một sự chuyển biến từ những nước tiểu cộng hòa chi phối lưu vực sông Hằng đến sự nổi bật của triều đại đầu tiên đã thiết lập một khung cảnh cuối cùng cho sự thống nhất Ấn Độ dưới triều đại Chandragupta Maurya khoảng một trăm năm sau.
Vấn đề khác mà Đức Phật đã tiến hành một cách liên tục suốt cuộc đời của Ngài là sự quan tâm mà Ngài dành cho cộng đồng bộ tộc Thích Ca của Ngài.  Đôi khi nói về vấn đề này sau khi lìa quê hương, Ngài thế nào đấy đã từ bỏ trách nhiệm đối với gia đình và bộ tộc của Ngài và chỉ lang thang và trở thành một tu sĩ.  Điều này không hoàn toàn đúng.  Sau khi giác ngộ, Ngài đã trở lại Ca Tỳ La Vệ, điều hòa chính Ngài với gia đình, và một số môn nhân quan trọng nhất của Ngài thật sự là những người thân quyến:  Đề Bà Đạt Đa, người sau đó đã cố gắng giành quyền thống lĩnh tăng đoàn; con của Ngài, La Hầu La, người được chấp nhận vào tăng đoàn  khi là một thiếu niên; di mẫu của Ngài, Ma ha Ba Xà Ba Đề, vị ni đầu tiên; em chú bác A Nan Đà, người nhớ toàn bộ kinh điển; một người em chú bác khác, A Nậu Lầu Đà, là một môn đệ gần gũi với Ngài và hiện diện lúc Ngài viên tịch; và một cách quan trọng, người em chú bác, Mahanama, anh em của A Nậu Lầu Đà và A Nan Đà, người đã kế thừa vương vị của dòng Thích Ca sau cái chết của vua Tịnh Phạn, thân phụ của Ngài.  Vì thế, một trong những khía cạnh của việc viễn ly của Đức Phật khi Ngài lìa dòng Thích Ca vào lúc hai mươi chín tuổi, một cách chính yếu là từ bỏ vai trò của Ngài như một lĩnh đạo tương lai của dòng Thích Ca.

HỎI: Nhưng Thích Ca không thật sự là một vương quốc?
BATCHELOR: Thích Ca là một trong những tiểu cộng hòa cổ xưa của Ấn Độ.  Nó không lớn lắm, khoảng vài trăm dặm vuông là tối đa.  Vào lúc Đức Phật sinh ra, nó đã không còn là một cộng hòa độc lập cai trị bởi một hội đồng trưởng lão và đã trở thành một tỉnh của vương quốc Kosala[2] với thủ đô là Shravasti.  Đấy là một cộng đồng được cai trị bởi những đại diện của những gia đình lĩnh đạo, với một người trong họ như thủ lĩnh tượng trưng.  Vào lúc Đức Phật ra đời, vua cha của Ngài, Tịnh Phạn Vương là thủ lĩnh của hội đồng cai trị những quan hệ nội trị của bộ tộc Thích Ca, nhưng họ là chư hầu của vua Kosambi[3].

HỎI: Có phải là Đức Phật đã trở nên có ảnh hưởng chính trị hơn vua cha của Ngài?
BATCHELOR: Trong một vài khía cạnh nào đấy, vâng.  Ngài đã di chuyển trong những vòng xoay chính trị rất năng động và uy lực.  Ngài đã có sự hổ trợ của một số nhân vật chính trị quyền lực nhất vào lúc ấy:  Vua Bimbisara ở Rajgir và Vua Prasenajit ở Shravasti.   Ngài phải là một người tổ chức rất tài giỏi, một lĩnh tụ đầy uy lực của những người đàn ông và đàn bà, là một người thật sự có một quan kiến rất sáng suốt về những gì Ngài sẽ làm và Ngài khởi động để thực hiện.  Đây không phải là một người chỉ ngồi và thiền quán và thỉnh thoảng ban bố một thời thuyết pháp.  Ngài quan tâm một cách sâu xa trong thế giới của Ngài, không là một ẩn sĩ viễn ly và xa lánh thế giới như Mahavira[4].

HỎI: Ngài đã dành được sự ủng hộ của những vị vua đầy uy thế vào lúc ấy như thế nào?
BATCHELOR: Lý do mà các vị vua đã ủng hộ Ngài -- tôi không nghĩ điều này là nhất thiết bởi vì họ đã có một sự thấu hiểu rõ ràng về triết lý của Ngài -- nhưng bởi vì họ đã thấy Ngài như một bậc thiên tư kỳ tài -  một nhân vật truyền cảm hứng, một người nào đấy có uy đức thu hút -- một nhà tư tưởng hay tiên tri, như những gì chúng ta gọi một người như vậy ngày nay -- và họ muốn được giao kết với Ngài.  Nhưng đấy cũng là một thời kỳ thay đổi lớn lao: những thành phố đầu tiên của Ấn Độ chỉ vừa nổi lên và lối sống của mà những Bà La Môn và những người đi theo hệ thống kinh điển Vệ Đà đại diện chủ yếu là lối sống nông nghiệp, đang thay đổi  chủ yếu do bởi sự phát triển kinh tế.  Bây giờ có đủ thặng dư qua sự sản xuất dồi dào vô kể trong lưu vực sông Hằng.  Sự sản xuất thặng dư không chỉ tạo nên tầng lớp thương gia -- rất giàu có, kể cả những chủ ngân hàng -- nhưng cũng cung cấp cho những người thống trị phong nhiêu đầy đủ để thiết lập những đội quân và có thể cho những người trẻ tuổi nam lẫn nữ xuất gia và tồn tại qua khất thực, theo đuổi những tôn giáo, triết lý và những ý tưởng khác.  Có một cuộc vận động đến một tương lai không biết được.  Người ta đã thấy những thị tứ cùng các thành phố nổi lên và những sự bắt đầu cho một trật tự xã hội mới, thế nào đấy bị che mờ bởi uy thế của những người Ba Tư ở phía tây.  Vì thế tôi nghĩ những vị vua này đang hổ trợ những đội quân và tu sĩ của họ bởi vì họ có hoài bảo văn minh.  Và dĩ nhiên, cuối cùng, một trăm năm sau khi Đức Phật niết bàn, điều này trong thực tế đã xãy ra:  sự nổi lên của đế quốc Maurya, vị vua đầu tiên, Chandragupta Maurya là một giáo đồ Kỳ Na Giáo, và Ashoka và một Phật tử, vì thế họ rõ ràng đang đi theo, khi đấy là một cuộc vận động mà trong ấy Kỳ Na Giáo và Phật Giáo được thấy như những lựa chọn thay thế đạo Bà  La Môn, và đã có một sự đấu tranh liên tục giữa những khuynh hướng khác nhau.

HỎI: Đã có sự xung đột với Bà La Môn Giáo hiện hữu trong thời kỳ Đức Phật không?
BATCHELOR: Không, điều ấy bắt đầu sau thời kỳ Ashoka.  Trong thời kỳ Đức Phật tại thế, không có những cuộc vận động xác định một cách rõ ràng, chúng đã không thật sự nổi lên.   Một cách rõ ràng, Đức Phật phê phán rất kịch liệt tư tưởng Bà La Môn.  Ngài hay chỉ trích về hệ thống xã hội mà nó hợp pháp hóa, những tư tưởng ẩn dụ và tôn giáo của nó là những thứ mà Ngài gạt bỏ một cách trực tiếp.  Ngài hoàn toàn không có thì giờ cho bất cứ đề cập tương tự nào về Thượng Đế -- Ngài hoàn toàn dẹp bỏ những thứ ấy ra khỏi khung cảnh [của Đạo Phật].  Ngài rất nghi ngờ về bất cứ loại linh hồn vĩnh cửu nào.  Và khi chúng ta bắt đầu nhìn vào một số tư tưởng then chốt của Đức Phật, chúng rõ ràng được đóng khung trong sự đối kháng với ư tưởng chính thống của Áo nghĩa thư và Vệ đà của Bà La Môn Giáo.  Tôi nghĩ Ngài đã thấy sự phê bình của Ngài về tư tưởng chủ đạo vào thời đại của Ngài như một bộ phận cần thiết cho tính toàn bộ trong cố gắng của Ngài để tạo nên một trật tự mới, một loại thế giới mới, như nó là.

HỎI: Có bất cứ một sự diễn tả thân thể nào về Đức Phật trong những kinh sách sơ khai không?
BATCHELOR: Hoàn toàn không.  Thông điệp duy nhất mà tôi đã thấy, một sự diễn tả thân thể về Đức Phật chỉ nói rằng Ngài nhìn không khác biệt với bất cứ người nào khác.  Ngài hoàn toàn như bất cứ một người không tên tuổi nào khác, như bất cứ một tu sĩ nào.  Bức hình mà chúng ta có về Đức Phật với kiểu tóc đúng hơn là buồn cười, trái tai dài và tất cả những thứ ấy, đấy là một hình ảnh hiện hữu từ những ngày tháng rất trể sau này, mặc dù nó được miêu tả trước trong tam tạng Pali bởi vì trong thời kỳ Đức Phật phải có một huyền thoại trong văn học Bà La Môn nói về một đại sĩ - Mahapurusha - một đại nhân - người sẽ đến trong một thời điểm nào đấy của lịch sử và ngài sẽ có ba mươi hai tướng tốt, và có hai liên hệ đến trong tam tạng Pali nói về một Bà La Môn nghe nói về một vị Phật như vậy đã xuất hiện trên thế gian và ông ta đã đi đến Đức Phật nhằm để khám phá xem thật sự Ngài có ba mươi hai tướng tốt  này không, là những điều mà rồi thì ông ta sẽ tiến hành thực hiện và xác định mỗi thứ.  Bây giờ rõ rằng đấy là một phần của huyền thoại.  Vì thế những hình ảnh của Đức Phật không liên hệ đến sự hiện hữu thân thể thật sự của Ngài nhưng sự thật rằng những người nào đấy tin tưởng Ngài là một Đại Nhân là người vì thế sẽ phải có những điểm phân biệt này.

HỎI: Ông nói rằng Đức Phật đã sống tha hương vào lúc cuối đời của Ngài?
BATCHELOR: Ở Rajgir, vị vua bây giờ không phải là Bimbisara (Tần Bà Sa La), mà là Ajatasattu (A Xà Thế), người không chỉ lật đổ vua cha của ông ta, mà đã mưu tính với thầy của ông ta là Đề Bà Đạt Đa để lật đổ Đức Phật.  Thực tế rằng cũng ở Vaishali Ngài có nhiều sự hổ trợ.  Trong lần kiết hạ lần cuối ở Vaishali, Ngài không ở chỗ thường khi của ông, là một ngôi nhà có mái đầu hồi ở trong một khu rừng lớn, mà Ngài lại ở trong một ngôi làng nhỏ ngoài bức tường thành và Ngài đã nói với các tu sĩ của ông hãy đi vào thành và tìm những nơi cư ngụ cho sự hổ trợ của họ.  Đây là một sự kỳ lạ -- tại sao Ngài ta làm thế?  Một lý do có thể cho điều này là bởi vì Ngài vừa mới bị một người đàn ông tên là Sunagatha, tố giác tại nghị trường Vaishali, người này từng là một tu sĩ trong cộng đồng Phật Giáo sau đó hoàn tục rồi đến nghị trường Vaishali và nói, "Tu sĩ Sĩ Đạt Ta Cồ Đàm là một kẻ giả mạo."  Vì thế chúng ta biết rằng Ngài chắc chắn mất  sự thân thiện ở Vaishali, Ngài mất sự quý mến ở Shravasti, quê hương Ngài bị tấn công, những người Magadha đang đối xử với Ngài giống như âm thanh cho một cuộc tiếp theo của họ.  Những gì chúng ta thấy trong thực tế là Đức Phật đang đánh mất sự quý mến thiết yếu tương ứng với sự mất đi những người bảo trợ chính của Ngài.  Trong khoảng chín hay mười tháng sau cùng, Ngài đã liên tục di chuyển, điều này một lần nữa làm nảy ra trong trí sự kiện tha hương này.

HỎI: Ông cũng kết luận rằng Đức Phật có thể bị đầu độc một cách có chủ tâm?
BATCHELOR: Ngài không thiếu những kẻ thù.  Pava, nơi mà Ngài dùng bửa ăn cuối cùng, là một trong hai thị tứ chính của Malla, một tỉnh của Kosala bên cạnh bộ tộc Thích Ca.  Karayana, một tướng lĩnh của quân đội Kosala bây giờ đang tàn phá dòng Thích Ca, đến từ Malla, có thể chính tại Pava.  Pava cũng là nơi mà Mahavira, người khai sáng của Kỳ Na Giáo được nói là đã chết vài năm trước đó, và khi Đức Phật đến đây thì đã có một ngôi đền của đối thủ của Ngài.  Kinh điển chỉ nói rằng khi Đức Phật được mời dùng bửa với những thị giả của Ngài tại một ngôi nhà của một người đàn ông tên là Cunda (Thuần Đà), người thợ rèn.  Cunda đã nấu một món ăn sukamadhava, thịt heo hầm, giống như ham hay thịt ba chỉ.  "Đưa thịt heo cho ta,"  Ngài nói với Cunda, "và thức ăn còn lại  những tu sĩ khác."  Khi buổi ăn đã qua, Ngài nói với Cunda, "Bây giờ ông nên chôn bất cứ phần thịt heo nào còn lại vào trong một cái hố."  Sau đó Ngài "bị một cơn bệnh trầm trọng và tiêu ra máu, và ngài chịu đựng một cách chính niệm mà không có một lời phiền trách nào."  Lời đáp lại duy nhất của Ngài là nói với A Nan:  "Chúng ta hãy đến Câu Thi Na," mà dưới những hoàn cảnh, dường như là "Hãy ra khỏi nơi này."

HỎI: Tại sao ông nghĩ rằng Ngài đã ăn thịt heo nếu Ngài đã biết nó sẽ làm cho Ngài bệnh?
BATCHELOR: Điều này hoàn toàn có ý nghĩa với tôi -- Ngài đã thúc giục cái chết của Ngài nhằm để giáo huấn của Ngài tồn tại.  Tại sao người ta lại giết một cụ già người đang sắp chết rồi?   Không có gì chắc chắn.  Chúng ta biết rằng Đức Phật bị bệnh rất trầm trọng.  Mục tiêu là gì để đầu độc một cụ già tám mươi tuổi chắc chắn là đang bị bệnh trầm kha.  Điều ấy vô lý.  Tại sao Đức Phật nói, "Đưa thức ăn ấy cho ta, và đừng đưa nó cho bất cứ người nào khác."  Tôi không nghĩ thức ăn ấy nhằm dâng cho Đức  Phật, nó để cho những người khác, đặc biệt là tu sĩ A Nan, người em chú bác của Ngài, người duy nhất đang giữ ký ức về mọi thứ của Ngài có thể tồn tại.  Nếu ông giết A Nan, ông giết Phật Giáo.  Tôi nghĩ A Nan là mục tiêu.  Đây là một cách nguyên thỉ thế nào đấy của việc đọc kinh điển.  Nhưng một khi chúng ta đặt tất cả những sự kiện vào trong một loạt trình tự thời gian, thật khó để mà không suy ra kết luận ấy.

HỎI: Ngài bảo chôn thức ăn ấy mà không ai có thể ăn nó chứ?
BATCHELOR: Có lẻ Ngài không biết chắc, nhưng không muốn việc ấy có cơ hội xảy ra.  Đúng đấy, chúng ta có thể giải thích theo một cách khác, nhưng tất cả chúng ta phải tiếp tục vài dòng này nữa trong những kinh điển này, không phải nhiều lắm, chúng ta sẽ không bao giờ biết.
HỎI: Ông nói rằng có một sự tranh giành quyền lực sau khi Đức Phật niết bàn?
BATCHELOR: Ô, may mắn thay, tam tạng kinh điển không chấm hết sau khi Ngài niết bàn.  Nó chấm dứt với việc kết tập lần nhất, tổ chức chín tháng sau đấy.  Và  nó diễn tả khá rõ ràng một sự xung đột quyền lực:  một sự đấu tranh giữa A Nan,  người em họ của Ngài và một tu sĩ tên là Ma ha Ca Diếp, người trở thành một tu sĩ trể sau này và được diễn tả như một Bà La Môn.  Người tự cho rằng ông ta đã nhận sự trao truyền trực tiếp từ Đức Phật.  Ông không có ở đấy khi Đức Phật niết bàn nhưng đã  đến với một số tu sĩ một tuần sau đấy, chỉ trước khi lễ trà tỳ sắp được châm lửa.  Ma ha Ca Diếp đã đỉnh lễ Đức Phật, và giàn hỏa táng được châm lửa, và sau đó sự xung đột bắt đầu.  Ma ha Ca Diếp không xem A Nan như hoàn toàn đắc đạo, và do thế không đủ phẩm chất để có bất cứ một vai trò lĩnh đạo nào trong cộng đồng.  Ma ha Ca Diếp cho rằng ông hoàn toàn đắc đạo và rằng ông là người kế tục Đức Phật, mặc dù Đức Phật đã công khai tuyên bố rằng Ngài không giao quyền lĩnh đạo giáo đoàn lại cho bất cứ người nào.  Thật đáng buồn cười, cộng đồng Phật Giáo bây giờ diễn tả ông như người lĩnh đạo Tăng già  (father of the Sangha).  Bây giờ cha già trong tiếng La tinh là Papa, hay Pope, tức Giáo hoàng, chính là điều mà Đức Phật đã không muốn xãy ra trong những tháng cuối cùng trước khi Ngài niết bàn.  Ma ha Ca Diếp sau đó đã tổ chức hội đồng kết tập đầu tiên ở Rajgir.  Ông một cách căn bản đã nắm trọn quyền.  Và có hai kinh trong tam tạng Pali, trong ấy Ma ha Ca Diếp rất thô tháo, hầu như lạm dụng, trong cách đối xử của ông ta đối với A Nan.  Ông đã gạt bỏ A Nan bằng việc nói rằng A Nan chỉ là một chú bé.  "Ông không biết tự lượng mình, chú bé.[5]" Và A Nan đã đáp lại: "Nhưng có phải những thứ này là tóc xám[6] đâu?"  Thật là kỳ lạ -- tại sao có những thông điệp này ở đấy, tại sao chúng không được điều chỉnh lại?  Có một số những đoạn trích nhỏ, rất chi tiết, điều ấy nói với chúng ta về sự xung đột trước hội đồng kết tập lần thứ nhất.

HỎI: Có phải sự nắm quyền lĩnh đạo Ma ha Ca Diếp là một vấn đề không đẹp cho Phật Giáo?
BATCHELOR: Ma ha Ca Diếp nắm quyền lĩnh đạo vào một thời điểm rất bất ổn.  Một cuộc chiến tranh sắp xãy ra.  Trong những cách nào đấy, nếu không có một nhân vật như thế, một người mạnh mẽ hay thẩm quyền thủ tọa như vậy, thế thì có lẽ Đạo Phật không thể sống còn.  Tôi nghĩ điều cũng nên nhận ra rằng -- chúng ta cần một loại người như thế nắm quyền điểu khiển, và để làm cho mọi việc hoàn tất.  A Nan có lẻ quá mềm yếu, ông muốn nhất trí, ông đã muốn thực hiện mọi việc trong một cung cách có thể hiểu được.

HỎI: Việc làm sáng tỏ câu chuyện này có làm cho ông giảm lòng ngưỡng mộ với Đức Phật không?
BATCHELOR: Tôi nghĩ tôi ngưỡng mộ Ngài thậm chí hơn thế nữa bởi vì tôi biết Ngài như một con người hơn là một nhân vật huyền thoại.  Tôi nghĩ lòng ngưỡng mộ tôi có với Đức Phật cho đến khi tôi bắt đầu làm công việc này là cho một nhân vật lý tưởng  hơn.  Nhưng bây giờ tôi có một bức hình của một con người mà chúng ta có thể hình dung một cách rất sống động, sống trên trái đất này, trong xứ sở này, đối diện với những đặc trưng này -- những hoài bảo này liên hệ với những vị vua -- và ở giữa tất cả những cuộc đấu tranh này, thiết lập giáo pháp của Ngài một cách đầy đủ trọn vẹn vì thế chúng ta có thể tiếp nhận ngày nay, tôi thấy điều này thật kỳ vĩ.


‘Compilers Ignored Historical Chronology’
Stephen Batchelor, author of Confessions of a Buddhist Atheist, tells the untold story of the Buddha's life and death
OUTLOOK INTERVIEWS STEPHEN BATCHELOR

Ẩn Tâm Lộ ngày 06/07/2011
Tác giả: Stephen Batchelor đàm luận với Outlook India
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 04/07/2011
http://www.outlookindia.com/article.aspx?264459


[1] Shravasti: Xá Vệ thành, Kusinagar: Câu Thi Na, Gaya: thành Già Da, Vaishali: Vệ Xá Ly, Rajgir: thành Vương Xá, Boddhgaya:  Đạo Tràng Giác Ngộ.
[2] Kiều Tát La
[3] Kiều Thưởng Di
[4] Mahavira (chữ Phạn: महावीर, Kannada ಮಹಾವೀರ chữ Tamil அருகன் ("Arugan") có nghĩa là "Đại anh hùng" hay "Anh hùng vĩ đại", sinh năm 599 TCN-mất 527 TCN) tên thật là Vardhamana và là người đã sáng lập ra Kỳ Na giáo (đạo Jaina), một tôn giáo cùng thời với Phật giáo. Ông vốn là một vị hoàng tử nhưng đã từ bỏ cung vàng, điện ngọc để vào rừng tu hành và đắc đạo. Sau quá trình tu đạo, ông nhận thức nhiều vấn đề, từ đó đã cố gắng vượt ra khỏi chủ nghĩa hoài nghi đang thịnh hành trong xã hội Ấn Độ cổ. Ông tán thành học thuyết “Naya” và cố gắng chứng minh tính khả thi của những quan điểm về các vấn đề chung, ông chắt lọc, bổ sung, xây dựng nên học thuyết về đạo Jaina.
[5] "You don't know your measure, boy."
[6]  "But are these not grey hair?" Gray hair:  loại màu đặc biệt xãy ra một cách tự nhiên cho những người già, thường thường tóc người ta với màu tự nhiên của nó từ màu xám và rồi đến trắng.  Hơn bốn mươi phần trăm người Mỹ có một số tóc xám ở khoảng tuổi bốn mươi, nhưng tóc trắng có thể xuất hiện rất sớm vào tuổi thiếu niên.


No comments:

Post a Comment