HAI CHÂN LÝ
Nửa đầu bài giảng thuyết của tôi sẽ là sự giải
thích chuyên môn về ý nghĩa của chân lý và nửa sau sẽ là về vấn đề áp dụng
trong đời sống hàng ngày như thế nào
trên căn bản của toàn bộ triết lý và hệ thống chân lý.
Vấn
đề nền tảng là tất cả loài người chúng ta, những người muốn hạnh phúc và không
muốn khổ sở. Trên căn bản ấy, chúng ta
đang cố gắng để khảo sát bản chất của chân lý nội tại và ngoại tại. Có hai loại triết lý và hệ thống của giáo huấn
trong xã hội loài người, và Đạo Phật là một trong hai thứ ấy. Chúng ta có nhiều triết lý khác nhau mà một
triết lý đơn giản không thể thỏa mãn tất cả nhân loại; đấy là tại sao chúng ta
có quá nhiều những giáo huấn khác nhau về những hệ thống tâm linh ngày
nay. Thật là quan trọng để có nhiều hệ
thống giáo huấn đa dạng cho tất cả những loại người.
Như
những môn đồ của Đức Phật, tôi đã học hỏi được một số điều mới mẻ. Nhưng tôi vẫn đang học hỏi và thu thập tri thức. Tôi không phải là một nhà chuyên môn nhưng là
một tu sĩ Đạo Phật, người đang cố gắng chân thành để đi theo niềm tin ấy trong
đời sống hàng ngày của mình. Đặc biệt
khi tôi đối diện với khó khăn, giáo huấn này là rất hữu dụng và duy trì sự ổn định
tinh thần của tôi. Những giáo huấn này
cho tôi một sự linh hoạt và sức mạnh nội tại.
Do vậy, bất cứ khi người nào đấy hỏi tôi giải thích triết lý hay giáo huấn
này, tôi xem đấy là trách nhiệm và bổn phận của tôi để cố gắng làm như thế.
Căn
bản nền tảng của triết lý nhà Phật được hình thành trên hai chân lý hay nhị đế: nếu chúng ta thấy điều gì đấy hữu
dụng trong những giáo huấn này, chúng ta nên tự mình kháo sát và áp dụng trong
đời sống hàng ngày; nếu quý vị không thấy gì quan trọng, thề thì bạn chỉ cần
quên nó đi. Hầu hết quý vị biết về Bốn Sự
Thật Cao Quý - Tứ Diệu Đế. Đây là nền tảng
của Đạo Phật.
Mục
tiêu của mỗi chúng sanh là hạnh phúc - hạnh phúc thường trực. Thật là diệu kỳ và ý nghĩa trọn vẹn nếu hạnh
phúc miên viễn có thể đạt được. Điều ấy
có nghĩa là không còn khổ đau nữa, hòa bình và toại nguyện trường cửu. Thường thường sau một thời khắc hạnh phúc và
sung sướng, một rắc rối hay thứ nào khác đó sinh khởi. Loại hoan hỉ ấy không thường trực. Do vậy, Bốn Sự Thật Cao Quý[1]
này trở nên đầy ý nghĩa. Bởi vì chúng ta
không muốn khổ đau, thật quan trọng để khảo sát những nguyên nhân của khổ
đau. Có thể tiêu trừ chúng chứ? Nếu thế, thật đáng đề cố gắng. Trái lại, thì có lý do gì trong việc cố gắng. Sự thật thứ ba, diệt đế là sự chấm dứt thật sự (những gì chúng ta gọi là niết bàn hay giải
thoát). Nếu thật sự có thể đạt được sự
chấm dứt những nguyên nhân của khổ đau, thế thì nó là kết quả để tìm ra những
cung cách và phương tiện để tịnh hóa tâm thức của chính mình hay tiêu trừ những
nguyên nhân của khổ đau. Đấy là Bốn Sự
Thật.
Nó
cũng biểu thị luật nhân quả và tương thuộc duyên khởi, và là căn bản của Tánh
không. Thuyết tánh không được căn cứ
trên khái niệm rằng mọi vật là tương duyên.
Vì mỗi thứ có những khía cạnh khác nhau, và nếu chúng ta so sánh những
khía cạnh này thì chúng ta sẽ thấy rằng mọi thứ liên hệ với nhau. Chính bản chất của nó là tương đối, và tánh
không liên hệ đến bản chất nền tảng của nó.
Vì vậy, có khả năng để tạo ra những thứ mới, và những thứ này sẽ thay đổi
vì mọi vật tùy thuộc trên những nhân tố khác.
Nếu mọi vật tồn tại một cách tuyệt đối và bởi chính chúng, thế thì không
có cách nào chúng ta có thể thực hiện những nổ lực mới nhằm để đạt được một
kinh nghiệm mới hay mục tiêu mới. Nếu mọi vật là tuyệt đối, không có cách nào để
tác động đến những thay đổi bằng bất cứ phương tiện nào. Đây là cốt lõi của hai chân lý.
Cũng
có giáo thuyết về ba lần chuyển luân.
Trong lần chuyển luân đầu tiên, Đức Phật
nói về Bốn Sự Thật Cao Quý. Cho
những người giới đức và thanh tịnh hơn trong sự tu tập, Ngài đã dạy về kinh Tuệ
Trí Toàn Thiện (kinh Bát Nhã). Nó bao
hàm một cách chính yếu về giáo thuyết tánh không. Tuy nhiên, tùy theo cách con người diễn giải
tư tưởng tiềm ẩn giáo huấn ấy, hai hệ thống - Duy Thức và Trung Quán - đi đến
hình thành.
Trong
lần chuyển luân giáo thuyết cuối cùng, Đức Phật chủ yếu nhấn mạnh vấn đề tịnh
hóa những vọng tưởng của tâm thức như thế nào.
Nói cách khác, tâm thức trong sáng có thể được sử dụng để phát triển nó
một cung cách thánh thiện. Bốn Sự Thật
Cao Quý được nói cùng với mười sáu khía cạnh của chúng. Những đặc trưng của khía cạnh sự thật khổ đau
(khổ đế) là vô thường, khổ, không, vô ngã.
Tổng quát, có giáo huấn về Bốn Pháp Ấn[2]
và giáo huấn này thường được chấp nhận bởi tất cả những người Phật tử. Bốn Pháp Ấn là: tất cả mọi hiện tượng là vô
thường, tất cả mọi hiện tượng nhiễm ô là khổ đau, tất cả mọi hiện tượng là vô
ngã và không; niết bàn là hòa bình (chư hành vô thường, nhất thiết hành khổ,
chư pháp vô ngã, niết bàn tịch tĩnh).
Trên
chủ đề vô ngã của mọi hiện tượng, bốn trường phái đã hình thành tùy trên những
khác biệt về quan điểm. Đấy là Tỳ Bà Sa
Luận Sư, Kinh Lượng Bộ, Duy Thức Tông và Trung Quán Tông[3]. Tất cả những trường phái này thực hiện một sự
trình bày về Hai Chân Lý. Nhưng Tỳ Bà Sa
Luận Sư và Kinh Lượng Bộ chấp nhận Hai Chân Lý như những thực thể khác biệt.
Theo
Tỳ Bà Sa Luận Sư, chân lý quy ước (thế
đế) có nghĩa là bất cứ hiện tượng nào không thể duy trì tính chất của nó sau
khi tan hoại. Trái lại ngay cả sau khi
phân chia thành những bộ phận tinh thần hay khi tan hoại một cách vật lý, nếu hiện
tượng có thể duy trì tính chất của nó, thế thì đấy là chân lý cứu kính (chân đế).
Thí dụ, microphone là một chân lý quy ước, và nếu chúng ta tách những bộ
phận khác nhau cấu thành sự tồn tại của nó, thực thể của nó bị mất. Nhưng khi chúng ta đi đến bản chất thật vi tế
của khí cụ đặc thù này, chúng ta không thể phân chia hay quăng đi cốt lõi của
nó. Bản chất rõ ràng này được liên hệ tới
như tối hậu hay "cứu kính".
Theo hệ thống này, nó chấp nhận hạt không phần tử (không thể phân chia
được - nguyên tử) và cũng như ý thức được quan tâm đến, nó chấp nhận ý thức như
không phần tử nhất thời (không thể phân chia được - sát na).
Theo
Kinh Lượng Bộ, chân lý quy ước là một thứ không thể biểu hiện chức năng một
cách căn bản, trái lại chân lý cứu kính là thứ có thể biểu hiện chức năng một
cách căn bản. Thí dụ, một bông hoa là
chân lý cứu kính, theo hệ thống này bởi vì một bông hoa tự nó được sản sinh bởi
những nguyên nhân và điều kiện và nó cũng sản sinh hệ quả. Do thế, nếu nó có thể sản sinh hệ quả, nó được
gọi là tác dụng hay hiệu quả.
Vì
đối tượng đặc thù này - bông hoa - là không thứ gì khác hơn là bông hoa, nó có
tất cả những phẩm chất xứng đáng để không là những hiện tượng khác. Do vậy, phẩm chất đặc thù đó chỉ là một sự diễn
dịch tinh thần, và sự diễn dịch này về phẩm chất của bông hoa ấy được gọi là
chân lý quy ước. Theo cả hệ thống Duy Thức
và Trung Quán, Hai Chân Lý có cùng thực thể nhưng khác nhau. Họ nói rằng thậm chí chúng là một thực thể
khác biệt, nếu chúng ta thuần thục tâm thức chúng ta với bất cứ một đối tượng đặc
thù nào, nó sẽ không làm tổn hại đối tượng phủ nhận là chân ngã hay tự ngã, bởi
vì chủ thể và bản chất của nó là một thực thể khác biệt. Do vậy, thực thể khác biệt của chủ thể và đối
tượng là không thể chấp nhận.
Mặc
dù thực thể của chân lý quy ước và chân lý cứu kính là giống nhau, nhưng Hai
Chân Lý là khác nhau. Nếu chúng giống
nhau, thế thì không khác gì nói là nếu chúng ta nhận ra và thấu hiểu một hiện
tượng đặc thù như một cái chậu một cách đúng đắn, thế thì chân lý cứu kính hay
tánh không của cái chậu sẽ cũng được thực chứng một cách trực tiếp. Nếu chúng ta theo phương pháp đề ra trong Duy
Thức tông là việc giải thích không nghi ngờ gì sự trình bày hai chân lý này
trong bản chất, nhưng theo Trung Quán tông, sự giải thích này không quá toàn vẹn
khi nó không thiết lập những tính chất của tự ngã như trống rỗng.
Theo
Trung Quán tông, mọi chủ thể hay hiện tượng có hai tính chất: tính chất quy ước
của nó và tính chất cứu kính của nó. Nói
cách khác, nó có tính chất tạm thời và tính chất trường cửu, thật sự, hay thường
tại. Hai tính chất này hiện diện không
tránh khỏi trong một đối tượng, và có một thực thể nào đó. Khi những luận sư Duy Thức giải thích Hai
Chân Lý, họ bắt đầu bằng việc giải thích ba đặc trưng hay biểu hiện và đặt căn
cứ sự giải thích của họ về Hai Chân Lý trên đấy.
Mục
tiêu của việc giải thích Hai Chân Lý là một cách căn bản chúng ta mờ mịt và mê
muội về thực tại. Nhằm để nhận ra sự mê
muội ấy và loại trừ sự mờ mịt ấy, chúng ta phải biết bản chất thật sự của
các hiện tượng. Vì vậy, Hai Chân Lý đóng một vai trò quan trọng
trong việc thấu hiểu thực tại.
Theo
Duy Thức tông, tất cả mọi hiện tượng có thể được phân chia thành ba loại: hiện
tượng phụ thuộc (y tha khởi), hiện tượng quy cho (biến kế sở chấp), và hiện tượng
thiết lập hoàn hảo (viên thành thật). Hiện
tượng phụ thuộc trở thành căn bản của việc định danh, và việc căn cứ trên hiện
tượng phụ thuộc này do bởi khái niệm chi tiết và dấu vết trong tâm của chúng ta
có từ vô lượng kiếp. Chúng ta có khuynh
hướng của những hiện tượng chấp thủ như tồn tại bên ngoài và cụ thể và bên
ngoài của tâm. Nhưng cách nhìn vào những
hiện tượng như vậy là sai. Chúng thật sự
có bản chất không tồn tại. Nói cách
khác, các hiện tượng xuất hiện bên ngoài đối với chúng ta là cùng thực thể với
chính tâm (tâm cảnh nhất nhu). Tâm chủ
thể và đối tượng được nhận thức bởi tâm là cùng thực thể. Nếu chúng ta thấu hiểu và lãnh hội tâm và đối
tượng như được làm bởi những thực thể khác nhau, như vậy là sai. Nó là đối tượng phủ định; không có sự tồn tại
như vậy. Một sự tồn tại như vậy là trống
rỗng. Tánh không ở đây hàm ý việc thiếu
vắng sự độc lập thực chất của tâm và đối tượng.
Do thế, tính chất thiếu sự độc lập thực chất này của tâm và đối tượng định
rõ tính chất căn bản về sự định danh của hiện tượng phụ thuộc (y tha khởi).
Nói
cách khác, theo trường phái này, chân lý cứu kính là điều gì đấy mà là đối tượng
tối hậu của tâm, và là một đối tượng thuần khiết. Những người tin tưởng trường phái này không
chấp nhận sự tồn tại của một đối tượng ngoại tại khác biệt một cách thực chất với
tâm. Đối với tâm, tất cả mọi hiện tượng,
tất cả những hiện tượng hiện hữu, là cùng bản chất. Cũng có một trường phái thứ hai, Trung Quán Tự
Quản Tông (Svatantrika-madhyamaka), chấp nhận lý thuyết của Duy Thức tông. Nhưng sau đó những triết gia Trường phái Hệ
Quả Trung Đạo (Prasanghika-madhyamaka) bác bỏ quan điểm này. Những luận sư nổi tiếng của Trung Quán tông
bác bẻ sự trình bày của Duy Thức tông, nói rằng, nếu chúng ta không chấp nhận sự
tồn tại của những hiện tượng ngoại tại, thì chúng ta cũng không thể chấp nhận sự
tồn tại của tâm. Duy Thức tông nói rằng
đối tượng ngoại tại tách biệt một cách thực chất với tâm là không tồn tại, và nếu
chúng ta cố gắng phân tích đối tượng ngoại tại qua các bộ phận, nó không thể được
tìm thấy. Do thế, các hiện tượng ngoại tại
là không tồn tại. Trong sự đáp lại,
Trung Quán tông nói rằng, nếu chúng ta không thể tìm thấy đối tượng ngoại tại
khi chúng ta phân tích nó qua các bộ phận, không phải biểu thị sự không tồn tại
của hiện tượng này; nó hàm ý sự không tồn tại cố hữu (vô tự tánh) của nó. Nếu chúng ta nói rằng các hiện tượng ngoại tại
là không tồn tại, thế thì chúng ta phải chấp nhận tâm cũng không tồn tại. Thế nên, các luận sư của Trung Quán tông chấp
nhận sự tồn tại của tâm cũng như hiện tượng ngoại tại.
Theo
Trung Quán tông, có hai cách giải thích Hai Chân Lý: một căn cứ trên sự tồn tại
của tâm phân biệt và thứ hai là căn cứ trên sự tồn tại của tâm vô phân biệt. Nhưng nếu chúng ta muốn cung ứng một sự giải
thích có thể chấp nhận được cho cả tâm phân biệt và tâm vô phân biệt, sẽ là điều
gì đấy như thế này: chân lý quy ước là
hiện tượng được tìm thấy bởi tâm phân biệt, trái lại chân lý cứu kính được tìm
thấy bởi một tâm cứu kính phân tích bản chất của hiện tượng cứu kính. Đây là sự giải thích được trình bày bởi Nguyện
Xứng trong Nhập Trung Luận (Madhyamika-Avatara).
Theo
Nhập Bồ Tát Hạnh (Bodhicarya-vatara), một sự giải thích được đưa ra căn cứ trên
tâm vô phân biệt. Trong trường hợp này,
chân lý quy ước là bất cứ hiện tượng nào được nhận ra như có một sự hiện hữu nhị
nguyên tế nhị, trái lại chân lý cứu kính là một hiện tượng được nhận ra bởi tâm
cứu kính và không có sự hiện hữu nhị nguyên.
Thông
thường, khi chúng ta nói về việc có những hiện tướng nhị nguyên, chúng ta muốn
nói nhiều thứ. Thí dụ, hiện tướng nhị
nguyên đôi khi liên hệ đến nhận thức những hiện tượng quy ước, đôi khi là đối với
bản chất tồn tại chân thật của một hiện tượng và đôi khi là một hiện tướng về ý
niệm chung của một hiện tượng.
Từ
nguyên có nghĩa gì với Hai Chân Lý? Thuật
ngữ "chân lý quy ước" thường được dùng bởi vì nó duy trì một tâm bị
che phủ hay u tối (trong ý nghĩa nó là một tâm bị che phủ bởi cách nó hiện hữu). Dường như đúng với một tâm đặc thù, và tâm đặc
thù ấy thấy nó như si mê (và si mê biểu thị một tâm u tối). Một tâm như vậy thiếu sự hiểu biết về đối tượng
đặc thù ấy, và thấy nó như chân thật. Đó
là tại sao nó được gọi là "chân lý quy ước" và không phải là "chân lý cứu kính".
Nếu
chúng ta tìm hiểu chân lý quy ước tho truyền thống Phạn ngữ, thì chữ "quy
ước" có thể có những ý nghĩa khác.
Chữ ấy đôi khi có nghĩa là samvritisatya, tự nó có những ý nghĩa khác
nhau. Đôi khi nó liên hệ đến điều gì đó
làm lu mờ phẩm chất hay vật quy ước. Nó
cũng có nghĩa là điều gì đấy lệ thuộc trên một căn bản nào khác. Do vậy, "quy ước" ở đây liên hệ đến
một tâm u tối, một sự si mê dính mắc thật sự.
Chân
lý quy ước có những sự phân loại khác nhau.
Nó hàm ý rằng kiểu mẫu tồn tại thật sự của một hiện tượng đặc thù và
cách nó xuất hiện không trùng hợp nhau.
Do thế nó không thể là chân thật, nhưng căn cứ trên cái nhìn của người
thế gian, nó có thể được phân loại thành hai đặc trưng: chân lý quy ước thật sự
và chân lý quy ước không thật. Căn cứ
trên quan điểm thế gian, có hai loại.
Thí dụ, một người trong giấc mơ là một chân lý quy ước không thật, trái
lại một người thật là một chân lý quy ước thật sự. Vì thế từ quan điểm thế gian hai loại ấy được
phân biệt, và không do bởi kiểu mẫu tồn tại thật sự của nó.
Quan
tâm đến chân lý cứu kính, các đạo sư khác nhau của Trung Quán tông diễn giải nó
một cách khác nhau. Đối với một số vị,
thuật ngữ "chân lý cứu kính", hay từ ngữ "cứu kính", có
nghĩa là bản chất thật sự của một hiện tượng.
Bản chất của hiện tượng là siêu việt và điều gì đấy mà chúng ta nên biết. Chúng ta phải cố gắng để nhận ra thực tai
siêu việt này. Đây là tại sao nó được gọi
là "cứu kính". Từ ngữ "cứu
kính" cũng có thể liên hệ trong hai cách.
Đôi khi nó nó có thể liên hệ đến đối tượng phủ định, đôi khi là đối tượng bị bác bẻ. Vào lúc khác nó có thể liên hệ đến tuệ trí mà
chúng ta nên phát sinh. Nếu chúng ta sử
dụng từ ngữ này với sự liên hệ đến đối tượng mệnh danh, thì không có hiện tượng
nào tồn tại một cách cứu kính. Nhưng nếu chúng ta liên hệ đến một đối tượng có thể được nhận thức một cách cứu kính bởi
thức trí thì nó là một hiện tượng tồn tại.
Nếu đối tượng bác bẻ là một thứ đặc thù tồn tại, thế thì chúng ta đã có
thể tìm thấy nó qua thức trí. Và nếu nó
là điều gì đấy được nhận thức và thấu hiểu bởi thức trí, không nhất thiết nó phải
tự tồn tại. Thí dụ, tánh không hay chân
như là chân lý cứu kính được nhận thức bởi thức trí.
Nếu
chúng ta lấy một hiện tượng cụ thể nào đó và phân tích bản chất của nó, cuối
cùng thì không thể tìm thấy nó. Thí dụ,
nếu trước nhất chúng ta phân tích bông hoa để khám phá bản chất tối hậu của nó
và thực tại của nó, chúng ta sẽ khám phá tánh không hay bản chất không cố hữu của
tánh không, mà chính bông hoa không thể được tìm thấy. Tuy nhiên, chúng ta sẽ tìm thấy tánh không của
tánh không, hay không không.
Trong
kinh điển, chân lý cứu kính được phân chia làm hai mươi hay đôi khi là mười sáu
loại, nhưng nó có thể được chia thành hai phân nhánh: tánh không của con người hay nhân vô ngã và
tánh không của hiện tượng hay pháp vô ngã.
Do
vậy, như tôi đã giải thích trước đây, từ ngữ "cứu kính" được diễn giải
theo quan điểm của mật tông tantra đôi khi liên hệ đến tâm chủ quan hay thức chủ
quan. Và đôi khi nó cũng có thể liên hệ
đến đối tượng. Nói một cách tổng quát,
nó có ba nghĩa: đối tượng, thức trí và
tác động của nó. Khi chúng ta theo truyền
thống mật tông, nó có một ý nghĩa khác.
Nhưng kinh luận khác nhau, đặc biệt luận điển mật trong tantra, sử dụng
từ ngữ "cứu kính" trong những cách đa dạng, mỗi thứ có ý nghĩa rộng
rãi của nó. Vì thế, thật rất quan trọng
để thấu hiểu ý nghĩa của từ ngữ "cứu kính" trong những phạm trù khác
nhau. Bằng trái lại, chúng ta có thể bối
rối và lạc lối. Khi chúng ta sử dụng những
thuật ngữ "quy ước" và "cứu kính" trong tổng quát, chúng
bao hàm cả những trình độ của kim cương mật giáo và kinh thừa hiển giáo và bao
gồm toàn bộ kiến thức. Nhưng khi chúng
ta liên hệ đến truyền thống mật tông, chúng không nhất thiết bao hàm toàn bộ kiến
thức. Chúng đôi khi chỉ liên hệ đến con
đường [tu tập].
HỎI ĐÁP
HỎI: Ai tìm ra tánh không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA:
Tôi khi nghĩ phải có ai đấy ở đây sẽ tìm thấy tánh không. Quý vị bắt buộc phải tìm ra tánh không nếu
quý vị thực thật chân thành trong đời sống hằng ngày, và đặc biệt khi quý vị chạm
trán vói một đối tượng nào đó tạo nên một cảm xúc mạnh mẽ chẳng hạn như luyến
ái hay thù hận, hay là đối mặt với tính vị kỷ mạnh mẽ. Trong thời khắc ấy, nếu quý vị tiến hành một
sự khảo sát thật cẩn thận nếu quý vị phân tích và thể nghiệm kiểu mẫu lãnh hội
của tâm, cách mà mọi thứ xuất hiện trong tâm, chúng ta thấy vào lúc ấy, đối tượng
xuất hiện là rất mạnh và sinh động. Nó
xuất hiện rất vững chắc và độc lập. Thí
dụ, khi cảm giác thù hận phát triển, đối tượng xuất hiện như 100 phần trăm tiêu
cực. Nhưng đây thật sự thổi phồng. Không có thứ gì 100 phần trăm tiêu cực. Tuy nhiên, trong thời khắc ấy, tùy theo thái
độ tinh thần của mỗi người, nó hiện hữu là như vậy. Thời khắc ấy là cơ hội tốt nhất và đúng thời
để phân tích bản chất thật sự và sự xuất hiện của nó. Và rồi chúng ta thấy tánh không với những lý
lẻ và chứng cứ hợp lý của nó và khám phá ra rằng mọi thứ là tương đối. Thí dụ, bằng việc phân tích các nguyên nhân của
một hiện tượng đặc thù và sử dụng những lý lẻ như "kim cương", v.v…,
và xa hơn bằng việc phân tích thực thể của hiện tượng cụ thể ấy và cho dù nó tồn
tại đơn thể hay bằng nhiều thành phần.
Cũng thế, bằng việc phân tích tác động của một hiện tượng đặc thù, cho
dù tồn tại hay không tồn tại, và cuối cùng , lý lẻ hợp lý của bản chất phụ thuộc
hay duyên khởi. Do vậy, nếu chúng ta
phân tích một cách cẩn thận, mặc dù thật khó khăn nhận thức trọn vẹn, nhưng
chúng ta có thể cảm thấy rằng có điều gì đấy. Điều ấy là rất chắc chắn.
Thực
chứng tánh không thật vô cùng quan trọng bởi vì khi chúng ta cố gắng để phân
tích bản chất thật sự của bất cứ hiện tượng đặc thù nào, chúng ta thấy rằng bản
chất thật sự là tánh không hay thiếu sự tồn tại cố hữu (không có tự tánh). Có thể nói rằng tánh không thật sự tồn tại. Thật quan trọng để nhận ra tánh không của
tánh không bởi vì tánh không tự nó không có sự tồn tại cố hữu, nó cũng vô tự
tánh. Nó cũng lệ thuộc trên điều gì
đó. Thí dụ, nếu chúng ta nhìn ngẫu nhiên
vào một hiện tượng nào đó và bản chất thật sự của nó, đối tượng đặc thù ấy dường
như thật sự hiện hữu mạnh mẽ hơn là tánh không của nó vì chúng ta không thể giải
thích điều gì đấy như tánh không mà không lệ thuộc trên một hiện tượng đặc
thù. Nói cách khác, tánh không là một phẩm
chất hay khía cạnh đặc thù của một hiện tượng.
Đối với bất cứ một phẩm chất nào thì phải có một cơ sở nào đấy. Vì vậy, tánh không, sunyata cũng trở thành một
bộ phận của điều gì đấy - phẩm chất của điều gì đấy.
Ý
thức cũng là bản chất của tánh không. Có
một lý do đơn giản cho điều này. Tánh
không có nghĩa là việc thiếu vắng sự tồn tại cố hữu hay tự tồn tại. Phạn ngữ pratiyasamutapada có nghĩa là
"phụ thuộc phát sinh".
"Phụ thuộc" bởi vì nó lệ thuộc trên những thứ khác và là bản
chất tuyệt đối. "Phát sinh" có
nghĩa là điều gì đấy xảy ra qua những nhân tố khác. Trong một cách, nó là điều gì đấy như số
không, zero. Không có số không, không thể
đếm được. Bởi vì mọi thứ là liên hệ với nhau, "trống rỗng" ở đây có
nghĩa là "như điều gì đấy trống rỗng". Do thế, nếu bản chất căn bản của nó là điều
gì đấy, mọi thứ là có thể. Căn bản ấy
đưa đến sự vắng mặt của bản chất tuyệt đối.
Một
cách tổng quát, khi chúng ta nói điều gì đấy không thật trong ý nghĩa thế gian,
không phải nó là không thật trong bề ngoài của thức trí, nhưng bởi vì nó không
thật trong trình độ thế gian. Vì vậy,
chúng ta có ý nghĩa của không thật (untruth) và hư vọng (unreality) của chân lý
quy ước. Nếu người nào đấy quan tâm, có
một mối quan hệ rõ ràng. Thí dụ, trong đời
sống hàng ngày, kinh nghiệm khổ và vui của chúng ta lệ thuộc rất nhiều trên
thái độ tinh thần của chúng ta. Tuy
nhiên, một khi chúng ta nhận ra những trình độ của chân lý quy ước và chân lý cứu
kính, việc thật rất lợi ích để làm giảm thiểu sự phóng đại tinh thần. Thực chứng Hai Chân Lý cũng rất hữu ích trong
việc làm cho tâm tư ổn định.
Chúng
ta đơn giản chấp nhận những thứ tốt và xấu qua việc nhận ra bản chất sâu xa
hơn. Nếu chúng ta có được một sự thấu hiểu
hợp lý về bản chất thật sự của chân lý cứu kính và chân lý quy ước, chúng ta sẽ
chạm trán những hiện tượng nội tại với một nhận thức quân bình. Tuy nhiên, trước khi thấu hiểu bản chất thật
sự của Hai Chân Lý, chúng ta có khuynh hướng phóng đại các hiện tượng. Tâm chúng ta là một thực thể thuần nhất; tối
thiểu nó xuất hiện như thế. Nhưng trong
thực tế, có nhiều loại tâm thức khác biệt nhau.
Tâm con người phức tạp một cách đặc biệt. Do thế, nhằm đề đạt đến tâm tư hòa bình, sự
rèn luyện hay kỷ năng Phật Giáo thật sự giảm thiểu sự bất ổn tinh thần và gia
tăng sự hạnh phúc tinh thần và sự hòa
bình tinh thần. Có nhiều phương cách
khác nhau để đạt đến hòa bình và giảm thiểu băn khoăn. Kiến thức về Hai Chân Lý là một trong phương
cách ấy. Nói một cách tổng quát, sự thực
tập tâm linh giống như một máy ổn áp.
Hòa bình cũng tương tự như vậy.
HỎI: Ngài có
thể nói về tốt và xấu không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA:
Tốt và xấu theo quan điểm Phật Giáo là
những thuật ngữ tương đối và tùy thuộc trên những nhân tố khác. Dười những hoàn
cảnh nào đó điều gì đó có thể là tốt, nhưng dưới những hoàn cảnh khác, nó trở
thành xấu. Nên không tuyệt đối. Chúng ta phải phán xét tùy theo những hoàn cảnh
đặc thù. Một cách tổng quát chúng ta có
thể nói rằng bất cứ hành vi hay nhân tố nào đem đến cho chúng ta hạnh phúc và
toại nguyện là tốt; bất cứ điều gì đem đến cho chúng ta bất hạnh hay khổ đau là
xấu. Cho nên quyết định tối hậu về tốt
và xấu căn cứ trên kinh nghiệm và cảm giác.
Tâm thức chúng ta là lời nói sau cùng.
Tôi
nghĩ sự tĩnh lặng tinh thần cho phép chúng ta thư thái và hạnh phúc. Điều này đúng cho tất cả mọi người. Sự thực tập khác là lòng vị tha. Như mọi thứ là tương quan sinh khởi, sự toại
nguyện hay hạnh phúc của chính chúng ta, lệ thuộc rộng rãi vào những người
khác. Nếu người khác, kể cả thú vật, hài
lòng và biểu lộ hạnh phúc hay một loại đáp ứng tích cực nào đó, chúng ta sẽ toại
nguyện. Do thế, sự thực tập về lòng vị
tha là nhân tố chìa khóa.
Trong
nửa đầu bài giảng của tôi về căn bản của Hai Chân Lý và Bốn Sự Thật Cao Quý,
bây giờ tôi sẽ nói về việc thi hành và sử dụng chúng trong đời sống hằng ngày
như thế nào hay sự thực tập hàng ngày.
Có
hai cách để áp dụng Bốn Sự Thật Cao Quý.
Một là nghĩ nhiều hơn về Hai Chân Lý; nó sẽ cho phép chúng ta thấu hiểu Bốn
Sự Thật Cao Quý tốt hơn. Trường hợp thứ
hai, nghĩ về Bốn Sự Thật Cao Quý, rồi thì trên vấn đề ngừng dứt - diệt đế - sự
giải thích về Hai Chân Lý có thể được thấu hiểu. Sự Thật Cao Quý đầu tiên là việc nhận ra bản
chất của đau khổ. Nếu đời sống của chúng
ta là tốt đẹp và bao hàm sự hạnh phúc thường trực thì không cần phải nghĩ đến
những thứ phức tạp khác. Nhưng đời sống
chúng ta không quá đơn giản và không có bản chất như vậy.
Nhằm
để biết bản chất khổ đau của đời sống, chúng ta cần thấu hiểu ba loại khổ
đau. Thứ nhất là khổ đau của khổ đau (khổ
khổ). Điều này biểu hiện trong hình thức
của những thứ như, nhức đầu và đau đớn và có thể áp dụng ngay cả cho thú vật. Có một phương cách để thoát khỏi loại khổ
đau này một cách tạm thời. Thứ hai là khổ
đau của thay đổi (hoại khổ). Đây là những
kinh nghiệm mà chúng ta thường cho là dễ chịu.
Thí dụ, khi chúng ta được thứ gì mới, vào những ngày đầu chúng ta rất
thích thú và cảm thấy vui vẻ. Tuy nhiên,
sau một thời gian cùng chủ đề ấy lại tạo nên một loại không hài lòng hay chán nản.
Chúng
ta có thể cảm thấy rất gần gũi với điều gì đấy xinh đẹp vào lúc đầu, nhưng sau
này trên cùng thứ ấy có thể hiện hữu xấu xí và không quá tốt đẹp. Hơn thế nữa, chúng ta có thể muốn từ bỏ
nó. Thật rất tự nhiên đối với những người
có cuộc sống trong một làng quê bé nhỏ hay trong một vùng hẻo lánh thèm muốn một
đời sống hấp dẫn hơn ở một vùng khác, một thành phố lớn hơn hay một xứ sở lớn
hơn. Và đôi khi những người ở trong một
thành phố lớn lại thích ở trong một vùng thôn quê hay một nơi yên tĩnh. Lòng khao khát luôn luôn thay đổi. Đây là đặc trưng thứ hai của khổ đau: sự khổ
đau của thay đổi.
Có
những sự diễn giải khác nhau về nổi khổ thứ ba - khổ đau vì điều kiện, khổ đau
cùng khắp (hành khổ). Một sự diễn giải
là thân thể chúng ta bị ảnh hưởng bởi si
mê. Có những loại si mê khác nhau. Một chỉ là sự si mê, đó là, chúng ta đơn giản
không biết điều gì đó. Một loại si mê khác
là nó làm cho chúng ta thấy các hiện tượng trong một thái độ lầm lẫn hay sai lạc. Loại si mê này là hạt giống thật sự của rắc rối
hay hạt giống của khổ đau. Vì thế, khi
si mê là một kẻ gây rối, nó phải được loại trừ.
Thật đáng để cố gắng loại trừ nó.
Nếu khổ đau là điều gì đó có thể loại trừ, thế thì thật hữu ích, để thấy
khổ đau cho những gì nó là và không sợ hãi nó, không thích nó hay thất vọng vì
nó. Bây giờ là một câu hỏi quan yếu là
có một sự ngừng dứt (diệt đế) hay không?
Ở đây chúng ta tự nhiên phải mang vào tâm thức chúng ta. Có hai loại hiện tượng riêng biệt: vật và tâm
hay vật thể và tâm thức. Nếu chúng ta
nhìn một bông hoa hay thân thể chúng ta trong dạng thức những hạt vi trần hay
phân tử, chúng là tương tự trong bản chất và tuân theo cùng hệ thống. Tuy nhiên, sự khác nhau là các bông hoa không
có tâm thức như con người. Bên cạnh những hạt vi trần vật lý có điều gì đó chúng
ta gọi là tâm hay thức. Khi những thân
thể hay hạt vi trần phối hợp với tâm thức, chúng ta có chúng sanh. Rồi thì, một cảm nhận về cái "tôi"
được phát triển.
Khi
đi đến những trình độ khác nhau của tâm thức, khi chúng ta thức, chúng ta có một
trình độ tâm thức. Trong khi chúng ta
đang mơ ngủ, một trình độ tâm thức khác hơi sâu hơn hoạt động (mộng trung ý thức). Khi chúng ta đang ở một giấc ngủ sâu không mộng
mị, chúng ta ở trong thể trạng khác của một thức hay tâm thậm chí sâu hơn. Khi chúng ta ngất xỉu hay hơi thở dừng lại,
trong thời gian ấy tâm thức trở nên vi tế hơn.
Thường thường người ta cho là thể trạng này như "vô thức",
nhưng trong thực tế, thức hay tâm trở nên sâu hơn. Tuy thế, tâm thức sâu nhất chỉ xảy ra khi
chúng ta chết.
Tâm
thức thô lệ thuộc rất nhiều vào những cơ quan thân thể như não bộ hay những hệ
thống thần kinh khác nhau. Tâm thức càng
sâu, nó càng độc lập hơn đối với thân thể.
Do thế, khi những chức năng vật lý hoàn toàn dừng lại, tâm thức vi tế nhất
lại hoạt động. Vào thời điểm lâm chung,
có một tiến trình bình thường của việc chia tách tâm thức vi tế và thân thể. Những hành giả đã có một sự thực tập nào đó về
du già hay những trình độ thiền tập nào đó có thể tự nguyện phân chia hay tách
rời tâm thức và thân thể. Qua thiền tập,
chúng ta cũng có thể kiểm soát sự tuần hoàn của máu, hơi thở, và những chức
năng khác của thân thể. Cuối cùng, nếu
chúng ta làm sâu sắc thêm việc rèn luyện của mình, có một khả năng của việc thực
hiện vấn đề phân tách này. Qua sự thực tập
hoán chuyển tâm thức, chúng ta có thể thực hiện sự phân tách này. Tuy nhiên, thật là nguy hiểm cho người sơ cơ,
khi người ấy có thể phân tách thân thể và tâm thức, nhưng không thể hợp nhất
chúng lại. Thật dễ dàng hơn nhiều để
phân tách hơn là hợp nhất lại.
Những
thảo luận với những nhà khoa học thần kinh và sinh học thần kinh khơi mở những
kiến thức về não bộ cũng như các chức năng của nó. Có lẻ có một mục tiêu cho việc thảo luận xa
hơn với những dòng này. Qua kinh nghiệm,
chúng ta có thể nói rằng có một khía cạnh của tâm - một cách đặc biệt là năng
lượng - điều khiển hệ thống thần kinh.
Như tôi đã đề cập trước đây, sức khỏe thân thể nối kết một cách cao độ với
sức khỏe tinh thần. Đã có những thí nghiệm
chửa trị bệnh tật qua thiền tập. Khi
chúng ta nói về si mê, chúng ta liên hệ đến một sai sót hay khiếm khuyết nào đó
của tâm thức, hay phẩm chất nhược điểm của tâm thức. Nhằm để giảm thiểu những phẩm chất tiêu cực
này của tâm thức và để đối phó loại tâm thức này, những thay đổi xảy ra trong bản
chất của sự nghi ngờ. Loại chuyển hóa
này ảnh hưởng nhận thức, và cuối cùng chúng ta có thể đạt được nhận thức vô thức
trực tiếp - trực nhận vấn đề.
Vì
vậy, nếu chúng ta muốn loại trừ loại tâm thức khiếm khuyết này, thật quan trọng
để thấu hiểu bản chất và sự chuyển hóa tâm thức. Trước nhất cố gắng để thẩm tra thể trạng của
tâm thức. Đôi khi chúng ta trải nghiệm một
loại tâm thức khác biệt và những tư tưởng hoang dã. Đây là do bởi sự hiện diện của quá nhiều tư
tưởng nhận thức làm u tối các hiện tượng.
Bản chất thật sự của tâm thức là che khuất - như khi chúng ta thêm màu
vào kính trắng, thật rất khó để thấy kính trong suốt. Do thế, thường thường nếu chúng ta cố gắng tẩy
trừ trình độ thô của tâm thức và những tư tưởng hoang dã, chúng ta đạt được một
tia lóe sáng về bản chất thật sự của tâm thức.
Tại giai tầng ấy, chúng ta cảm nhận bản chất trống rỗng của tâm thức. Đây là một kỷ năng mà nhờ đó để nhận ra
tâm. Ở đây, khi nói bản chất, thì đó
không phải là bản chất cứu kính, nhưng là bản chất quy ước của tâm thức. Vào buổi sáng sớm, khi chúng ta thức dậy,
nhưng tâm thức chúng ta chưa hoàn toàn hoạt động, đôi khi chúng ta trải nghiệm
những tư tưởng trong suốt không màu sắc.
Vậy thì bản chất của tâm thức giống như điều gì đấy màu trắng và có thể
hấp thu những màu sắc khác. Đấy là điều
gì đấy trung tính, không phải là điều gì đấy thánh thiện, nhưng là điều gì đấy
tinh khiết. Rồi thì có những tư tưởng
khác đồng hành cùng với tâm tinh khiết này.
Thí dụ, không ai có thể duy trì sự giận dữ trong mọi lúc. Ngay khi tâm thức và sự tỉnh thức hiện hữu,
ngay cả nếu một người rất dễ giận dữ, sự điềm tĩnh rất ngắn, thì cũng có những
thời khắc nào đó người ấy không có sự cáu kỉnh.
Trong trường hợp của luyến ái, bất chấp nó có thể mạnh mẽ như thế nào, bản
chất nền tảng của tâm thức cho thấy nó có thể loại trừ được. Tùy thuộc trên những nhân tố ngoại tại và nội
tại, luyến ái hoặc là gia tăng hay giảm thiểu.
Vì thế, có khả năng để giảm thiểu luyến ái hay dính mắc, chấp trước.
Bây
giờ câu hỏi là có khả năng của việc giảm thiểu những tư tưởng này không? Nhằm để làm việc này, chúng ta phải biết kiểu
mẫu tồn tại của nó, và cách mà chúng xuất hiện đến chúng ta. Trong tổng quát, chúng ta làm một sự phân biệt
đặc trưng giữa phẩm chất của một đối tượng đặc thù và những thành phần của
nó. Và khi chúng ta nói về một đối tượng,
phẩm chất của nó và khái niệm chi tiết của nó, chúng ta đã phân biệt những phẩm
chất trong tâm thức, mặc dù khi chúng ta
nói về một đối tượng và tác động của nó, thế thì chúng là hai hiện tượng khác
nhau. Nếu đây là kiểu mẫu thật sự của sự
tồn tại, thì chúng ta phải có thể tìm thấy nó khi chúng ta nhận ra nó, nhưng
không thể tìm thấy nó. Do thế, nếu chúng
ta loại trừ những thành phần, chúng ta sẽ không bao giờ có thể tìm ra đối tượng
thật sự đã làm ra chúng.
Tuy
nhiên, điều này phù hợp với kiểu mẫu quy ước của sự tồn tại, và không thích hợp
với kiểu mẫu tồn tại cứu kính. Trong tổng
quát, nếu chúng ta cố gắng để tìm kiếm căn bản mệnh danh của tất cả mọi hiện tượng,
chúng ta không thể tìm thấy. Trên trình
độ thế gian, chúng ta có thể tìm kiếm đến một phạm vi nào đó, nhưng vượt khỏi
đó, nếu chúng ta phân chia các hiện tượng thành những bộ phận và cố gắng để tìm
kiếm nó, chúng ta không thể làm việc đó.
Thí dụ, lấy trường hợp của cái "tôi". Thông thường, chúng ta có thể nghĩ rằng cái
"tôi" là một chủ nhân hay điều gì đấy thuộc về chủ nhân ấy. Do vậy, giả sử có một tính chất riêng rẻ bên
cạnh thân thể và tâm thức. Trong tổng
quát, khi chúng ta nói về cái "tôi", chúng ta có một cảm nhận sai lầm
về cái "tôi" như chủ nhân của tâm thức và thân thể. Để sáng tỏ: có một người với một thân thể hay
tâm thức khiếm khuyết. Nếu ai đó đến và
nói, "Tôi sẽ cho bạn một thân thể tốt hơn và một sự hòa bình tốt hơn của
tâm thức", thế thì người ấy lập tức sẽ phát sinh một ý chí chấp nhận
nó. Điều ấy rõ ràng biểu hiện rằng chúng
ta có một khái niệm sai lạc rằng cái "tôi" là riêng biệt với thức uẩn
và tâm. Tuy thế, nếu chúng ta thẩm tra
thân thể và tâm thức, không có điều gì còn sót lại. Dĩ nhiên, có một cái "tôi". Nếu không có cái "tôi", thế thì sẽ
không có "người khác". Nếu không có "người khác", thế thì
không có lý do
gì
cho việc thực tập lòng vị tha. Vậy thì
rõ ràng có một cái "tôi" và
"người khác". Tuy
nhiên, sự giải thích thông thường trên phối hợp của thân thể và tâm thức. Mỗi hiện tượng, vì vậy, được mệnh danh trên
phức hợp những thành phận của nó, là điều, nếu chúng ta khảo sát, chúng ta
không thể tìm thấy. Nhưng nếu chúng ta phủ nhận những thứ này bởi vì chúng ta
không thể tìm thấy chúng và nói rằng một người không tồn tại, nó mâu thuẩn với
kinh nghiệm hàng ngày của chúng ta. Kinh
nghiệm của chúng ta rõ ràng cho thấy rằng con người tồn tại và không phải không
tồn tại. Nếu chúng ta phủ nhận sự tồn tại
của người ấy, chúng ta rơi vào cực đoan hư vô hay đoạn kiến. Mặc dù con người tồn tại rất rõ ràng, nhưng sự
tồn tại ấy chỉ là quy ước. Nó không tồn
tại một cách độc lập. Điều này rõ ràng hủy
bỏ cực đoan thường tại hay thường kiến.
Khi
chúng ta nói về một con người được mệnh danh và lệ thuộc trên điều gì đấy, nó
loại trừ hai cực đoan: cực đoan hoàn toàn không tồn tại và cực đoan thường tại. Do thế, chúng ta gọi nó là Trung Đạo hay
Madhyamika. Khi chúng ta nói về việc thực
chứng trung đạo hay quan điểm trung quán, nó có nghĩa là mọi vật không hoàn
toàn không tồn tại nhưng chúng cũng không một sự tồn tại độc lập. Mọi hiện tượng xuất hiện với chúng ta như tồn
tại trên chính chúng mà không lệ thuộc trên bất cứ điều gì, nhưng không phải
như vậy. Chúng chỉ có một sự tồn tại lệ
thuộc trên những hiện tượng khác. Chúng
chỉ được mệnh danh bởi tâm thức. Do vậy,
việc nhận ra một sự thấu hiểu như thế là thực chứng quan điểm của Trung Quán
tông.
Thật
thú vị tại giao điểm này để thẩm tra sự phát sinh sân hận hay luyến ái trong
ánh sáng của quan điểm. Thật rõ ràng rằng
khi chúng ta phát sinh sân hận hay luyến ái, đối tượng đặc thù của sân hận hay
luyến ái xuất hiện như điều gì đấy tồn tại
một cách độc lập, như điều gì đấy cụ thể.
Rõ ràng rằng khi một sự sân hận hay luyến ái mạnh mẽ phát triển, đối tượng
xuất hiện như độc lập và là điều gì đấy 100 phần trăm tiêu cực hay tích cực. Nhưng với sự trôi đi của thời gian, khi sân hận
và luyến ái bị giảm thiểu hay biến mất - cảm nhận của chúng ta đối với cùng người
ấy sẽ là khác biệt. Thí dụ, khi một đôi
kết hôn, đôi lứa có thể dường như 100 phần trăm xinh xắn và tốt đẹp với
nhau. Điều này chính yếu là qua vọng tưởng
của họ thừa nhận đối với luyến ái. Khi
có một rắc rối nào đó, cảm xúc mạnh mẽ giảm thiểu. Nhưng khi rắc rối hay sân hận biến mất, kiểu
mẫu thật sự của con người bắt đầu xuất
hiện.
Rõ
ràng rằng khi chúng ta phát sinh tâm tiêu cực, gốc rể của nó là kiểu mẫu sai lạc của việc hiểu thấu các
hiện tượng. Sự hiểu thấu chân thật đối với
các hiện tượng và nhận thức của tâm về việc thiếu sự tồn tại chân thật của các
hiện tượng là mâu thuẩn trong những kiểu mẫu lãnh hội của các tâm thức. Hai tâm thức này hướng trực tiếp đối với cùng
những đối tượng, nhưng kiểu mẫu lãnh hội
chúng là khác nhau. Vì vậy hai tâm thức này là đối lập với nhau. Điều khác biệt duy nhất giữa hai tâm thức này
là ý thức nhận thức sự thiếu vắng một sự tồn tại chân thật có giá trị hổ trợ và
giá trị nền tảng, trái lại còn tâm thức kia thì không.
Có
khả năng để loại trừ tất cả mọi tư tưởng tiêu cực. Khi thời gian trôi qua, và sự thiền tập trung
sâu hơn cùng với thiền phân tích, những tư tưởng và cảm xúc tiêu cực cuối cùng
có thể loại trừ được. Thể trạng của tâm
thức đã được loại trừ những cảm xúc tiêu cực là những gì chúng ta thường gọi là
niết bàn, giải thoát, hay sự ngừng dứt (diệt đế). Sự ngừng dứt không có nghĩa là sự ngừng dứt
tâm thức chúng ta hay sự ngừng dứt chính
cá nhân ấy; nó có nghĩa là sự ngừng dứt những cảm xúc tiêu cực. Trong trường phái Phật Giáo về tư tưởng, có
những sự giải thích khác nhau về giải thoát (moksha). Thí dụ, trường phái tư tưởng Tỳ Bà Sa tin tưởng
rằng khi chúng ta đạt được sự ngừng dứt chân thật, diệt tận định hay giải
thoát, không còn thức nữa, không còn những tập hợp uẩn tâm lý, hay skhandha, và
không còn hiện hữu nữa. Tuy nhiên, như
Long Thọ nói, "Nếu trường hợp là thế ấy, vậy thì không có chúng sanh đạt đến
điều ấy". Do vậy, chúng ta không thể
nói rằng có một chúng sanh đạt đến niết bàn, bởi vì khi niết bàn xảy ra, không
còn chúng sanh nữa; nếu có chúng sanh, không thể có niết bàn. Bản chất của tâm thức là thanh tịnh, nên
không có lý do gì để ngừng lại hay chấm dứt nó.
Trong triết lý Trung Quán và Duy Thức, niết bàn một cách chắc chắn tồn tại,
nhưng chúng sanh với tự tánh cũng tồn tại. Ngay cả trong trường hợp Quả Phật, một vị Phật
với đặc tính cá nhân tồn tại. Đối với
tôi, giải thoát là sự ngừng dứt hoàn toàn về tâm hay thức, sự ngừng dứt của cái
"tôi". Tôi sẽ thích luân hồi
hơn so với niết bàn bởi vì trong cõi luân hồi có đời sống và kinh nghiệm. Tôi nghĩ điều này tốt hơn là duy chỉ không có
gì.
Người
ta có ấn tượng về sự ngừng dứt hay niết
bàn, là không có gì, và rằng tất cả mọi cảm giác, tâm thức, và mọi thứ hòa tan
trong tánh không. Không có gì còn lại. Thế đó là sai. Một cách thật sự, niết bàn là một thể trạng
hoàn toàn thanh tịnh của tâm thức chính mình. Đấy là bản chất cứu kính của tâm
thức đã được tiêu trừ tất cả những cảm xúc phiền não.
Trách
nhiệm của chúng ta là cảm nhận "Vâng, có một phương pháp và điều gì đấy
đáng để đạt đến". Cho nên chúng ta
phải cố gắng để khảo sát bản chất của khổ đau, và trên vấn đề chúng ta chán chường
với khổ đau như thế nào cho nên chúng ta phải phát triển cảm giác viễn ly với
khổ đau, xa rời khổ đau nhằm để đạt đến niết bàn, với sự giải thoát thường trực. Nếu chúng ta chỉ nghĩ về hai sự thật đầu của
Bốn Sự Thật Cao Quý mà không nghĩ một
cách thích đáng về hai sự thật tiếp theo, nó sẽ không phục vụ cho mục tiêu giải
thoát. Đôi khi người ta có thể không
khoan dung về sự thụ động, không hoạt động,
và bi quan của hành giả nếu người ấy chỉ nghĩ về hai sự thật đầu là khổ đế và tập
đế. Vì vậy, hãy cố gắng cân bằng và cố gắng
để thấu hiểu hai sự thật tiêu cực cũng như hai sự thật tích cực, diệt đế và đạo
đế. Rồi thì chúng ta sẽ có một đường hướng
hay mục tiêu rõ ràng, và một sự thấu hiểu rõ hơn và thực chứng về bản chất của
chúng. Tự động, chúng ta sẽ cảm thấy
chán nản với những tư tưởng tiêu cực và điều ấy là rất quan trọng. Một cách thực tế, kẻ thù thật sự của chúng ta
- kẻ gây rối hay tàn phá hạnh phúc của chúng ta - là ở bên trong chính chúng
ta. Thí dụ, giận dữ, thù hận, luyến ái và
tham lam cực độ là những kẻ tàn phá niềm hòa bình nội tại của chúng ta, trái lại
kẻ thù ngoại tại, bất kẻ là mạnh mẽ thế nào, đơn giản là không thể tàn phá niềm
hòa bình nội tại. Nếu ngươi nào tĩnh lặng
và hòa bình tinh thần, thì không hề gì ngay cả nếu người ấy bị bao vây bởi những
kẻ thù địch bởi vì người ấy sẽ cảm thấy rất ít quấy nhiễu. Trái lại, nếu chúng ta tinh thần không vui vẻ,
bất ổn hay xáo trộn, ngay cả nếu chung quanh chúng ta là những người bạn thân
hay tiện nghi bậc nhất, chúng ta cũng không cảm thấy hòa bình và hạnh
phúc. Do vậy, hòa bình nội tại và cội
nguồn của nó là sự ngừng dứt chắc chắn hay kết quả của sự tĩnh lặng và ổn định
của tâm thức. Vì thế, nguyên nhân chắc
chắn và cứu kính của sự tĩnh lặng và hạnh phúc tinh thần không thể là bất cứ
nhân tố ngoại tại nào cả.
Nguồn
gốc căn bản của sự hòa bình tinh thần có thể bị hủy diệt bởi sự giận dữ và những
cảm xúc tiêu cực của chúng ta. Một người
thông tuệ sẽ không cho phép giận dữ hay thù hận tự biểu hiện bởi vì không ai muốn
khốn đốn hay khổ đau. Nếu chúng ta muốn
đạt được hạnh phúc, chúng ta phải chăm
sóc đến nguồn gốc căn bản của hạnh phúc.
Chúng ta phải thực tập từ ái, bi mẫn, ân cần, và cố gắng giảm thiểu giận
dữ. Những thứ này không phải thuộc tôn
giáo nhưng chúng liên quan đến hạnh phúc hàng ngày của chúng ta.
Ở
trình độ thông thường, khi những tư tưởng tiêu cực của giận dữ và luyến ái sinh
khởi, thì chúng xuất hiện tác động và hữu ích.
Thí dụ, khi chúng ta đối diện một rắc rối, mất mát hay thất bại, sự giận
dữ đến như một kẻ bảo vệ hay hổ trợ. Giận
dữ nói với chúng ta đừng sợ và cho phép nó tự biểu lộ. Một người giận dữ hầu như điên khùng và sử dụng
những ngôn ngữ cay nghiệt hay thỏa thích trong những hành động tổn hại thân thể,
v.v… Trong một cách, giận dữ cho chúng
ta sự gan dạ liều lĩnh hay sức mạnh.
Tương tự thế, khi luyến ái sinh khởi, nó đến như một người bạn thân nhất
và gần gũi nhất. Do vậy, ngoại trừ chúng
ta phân tích một cách thật chân thành và nghiêm túc, không thì thật khó khăn để
nhận ra những tư tưởng tiêu cực và phẩm chất sai lầm tiêu cực của chúng.
Khi
giận dữ khống chế tâm thức chúng ta, đôi khi chúng ta sử dụng những ngôn ngữ
cay nghiệt và khó chịu. Nhưng khi cơn giận
hạ xuống, chúng ta cảm thấy ngượng ngùng rút lại lời nói và chúng ta tránh gặp
gở người mà chúng ta đã có những sự bất hòa.
Điều này cho thấy rằng một cách căn bản chúng ta không muốn sử dụng những
lời không đẹp, nhưng sự giận dữ vào lúc ấy đã làm chúng ta mất sự kiểm
soát. Do vậy, giận dữ là kẻ thù, không hữu
ích và không đáng tin cậy. Trong một số
trường hợp khác, chúng ta cần một biện pháp mạnh mẽ chống lại giận dữ. Khi điều gì đó xảy ra, hãy phân tích và khảo
sát hoàn cảnh từ đầu đến cuối. Nếu nó cần
một biện pháp hiệu quả, hãy thực hiện mà không có sự giận dữ, như vậy bất cứ
hành vi nào bị thúc đẩy bởi giận dữ sẽ bị vô hiệu hóa. Cũng thế, trong nhiều trường hợp, những quyết
định được tiếp nhận dưới ảnh hưởng của giận dữ thường được thấy là sai lầm. Thù hận và giận dữ làm cho chúng ta ăn không
ngon và ngủ không yên, và chúng ta khổ não về tinh thần. Kẻ thù thật sự cảm thấy vui mừng khi thấy
chúng ta bị căng thẳng. Trái lại, nếu
chúng ta vẫn tĩnh lặng và tình cảm rất vui vẻ, kẻ thù không thấy hài lòng chút
nào. Xa hơn thế, giận dữ thật sự phá hoại
sự phán xét của chúng ta, có thể nhận thấy rõ qua những hậu quả ngắn hạn hay
lâu dài. Có một kẻ thù là hữu ích bởi vì
nó cho chúng ta cơ hội để thực tập nhẫn nại và bao dung. Sự thực tập này là cần thiết cao độ cho việc
phát triển một lòng bi mẫn và từ ái chân thành.
Chúng
ta không thể học hỏi sự kiên nhẫn và bao dung từ một vị đạo sư hay một người bạn. Chúng chỉ có thể được thực hành khi chúng ta
chạm trán với người nào đó tạo nên kinh nghiệm khó chịu. Theo Tịch Thiên, những kẻ thù thật là tốt cho
chúng ta khi chúng ta có thể học hỏi rất nhiều ở họ và xây dựng một sức mạnh nội
tại. Sự thực tập về lòng từ ái và bi mẫn
không chỉ là sự tu tập tôn giáo hay một vấn để thánh thiện, mà là một vấn đề của
sự tồn tại. Trong dạng thức của loài người,
tôi nghĩ nền kinh tế đang đối diện với cuộc khủng hoảng toàn cầu, và dĩ nhiên,
có một câu hỏi cho hòa bình thế giới.
Trong mọi lãnh vực, nhân tố quan trọng là bi mẫn và một trái tim tốt
lành. Ở đây, chúng ta phải phân biệt giữa
yêu thương và bi mẫn. Thông thường người
ta không nhẫn nại trong tình thương, khi tình thương bị trộn lẫn hay bị ô nhiễm
với dính mắc. Biểu hiện của sự ô nhiễm
như vậy là tình thương của chúng ta bị lệ thuộc trên vấn đề người kia đáp ứng với
chúng ta như thế nào. Thí dụ, nếu ai đấy
thật gần gũi với chúng ta , và điều gì đấy không vừa ý nảy sinh, thái độ của
chúng ta thay đổi ngay lập tức và tình thương biến mất. Tuy nhiên, có một loại tình thương khác là
chân thành, nơi mà chúng ta nhận ra người kia là một người giống như chính
chúng ta cũng muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, và người có mọi quyền chính
đáng để vượt thắng khổ đau và đạt đến hạnh phúc. Trên căn bản ấy, một tình thương chân thành,
là lòng từ ái và ân cần được phát triển và được duy trì trong quan hệ như vậy.
Khi
chúng ta nói về tầm quan trọng của tình thương và lòng ân cần, chúng ta liên hệ
đến tình thương chân thành, lòng từ ái, chứ không phải tình thương và ân cần bị
ảnh hưởng sâu đậm bởi si mê. Đôi khi người ta nói rằng khi giận dữ sinh khởi, tốt
hơn là biểu lộ nó hơn là che dấu hay đè nén chúng. Dĩ nhiên, có những trình độ khác nhau của sân
hận. Điều trước nhất và quan trọng nhất
là nhận ra tính tiêu cực của giận dữ và thù hận. Một khi chúng ta tin chắc về điều ấy, tự
nhiên chúng ta cố gắng để tự tạo khoảng cách với giận dữ và thù hận. Tuy thế nếu sự giận dữ mãnh liệt sinh khởi,
và khó khân để đè nén, duy hãy cố gắng quên đối tượng của giận dữ. Thí dụ, chính sự thực tập và kinh nghiệm của
tôi. Tôi đến từ vùng Amdo[4],
vùng Đông Bắc của Tây Tạng. Người dân
vùng ấy thường được xem như rất dễ nóng giận.
Khi tôi còn trẻ, thậm chí tôi cũng có thói xấu ấy. Khi thời gian trôi qua, tôi đã thực tập những
thứ này để chinh phục tâm thức tôi. Sự
giận dữ của tôi đã giảm thiểu một cách đáng kể.
Trong những trường hợp nào đó, sự giận dữ hay phát cáu cũng phát sinh
nhưng chúng biến đi một cách nhanh chóng. Và tôi thật là khó mà có bất cứ cảm
nhận thù hận nào.
Vậy
thì, chính là qua việc thực tập mà chúng ta có thể sự phát triển nội tại của
chúng ta. Có một khả năng cho việc thay
đổi. Nhằm để thay đổi, trước nhất chúng
ta phải tự thay đổi chính mình. Nếu
chúng ta không thay đổi, không điều gì có thể đổi thay, và việc mong đợi những
thứ khác thay đổi là hoàn toàn không thực tế.
Tâm thức con người luôn luôn thay đổi; và nếu chúng ta thực hiện một nổ
lực nào đó trong một đường hướng đúng đắn, một cách căn bản những thay đổi tinh
thần sẽ xảy ra và chúng ta có thể đón nhận một niềm hòa bình và hạnh phúc vô
biên mà không có bất cứ sự đau đớn hay tổn phí nào cả. Hòa bình và hạnh phúc phải được phát triển
bên trong chính chúng ta. Như Đức Phật
nói, "Ta là thầy của chính ta.
Tương lai của ta hoàn toàn lệ thuộc trên chính ta. Không ai khác có thể săn sóc tương lai của ta
và hiện tại nằm trên vai chính ta."
HỎI: Có thể
hoàn toàn tự do khỏi sự hiện diện của tự ngã tiêu cực hay không hay đấy chỉ là
một thần thoại?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA:
Vì khiếm khuyết và lỗi lầm không là những
phẩm chất cố hữu của tâm thức, nên lỗi lầm có thể được tiêu trừ.
HỎI: Nếu tẩy
trừ thân và tâm, sự tỉnh thức tĩnh lặng xuất hiện. Sự tỉnh thức này giống nhau ở tất cả mọi
chúng sanh. Đây là bản chất của việc thực
chứng tự tánh. Xin hãy bình luận thêm.
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA:
Tổng quát, sự tương tục của tâm duy trì, do thế, không thể loại bỏ tâm và thân
và để đạt đến tự tánh. Như tôi đã đề cập
trước đây, theo Giáo huấn Đại Thừa, thậm chí ở giai tầng Giác Ngộ, tuệ trí cũng
được biểu hiện trong tự ngã cá nhân.
HỎI: Xin hãy giải
thích tánh không của những hiện tượng cứu kính như chết và nghiệp.
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA:
Khi chúng ta nói về tánh không, bất chấp bất cứ hiện tượng nào, tánh không có
nghĩa là việc thiếu vắng sự tồn tại cố hữu của hiện tượng đặc thù đó. Hành động (nghiệp) và chết cũng là những hiện
tượng, nhưng không phải là chân lý cứu kính.
Bản chất cứu kính của chúng là tánh không. Thật quan trọng để biết về chết và nghiệp. Nghiệp là hành động với động cơ, và một tinh
thần nào đó cũng như hành động thân thể liên hệ.
Một
hành động bắt buộc phải có một kết quả.
Trong Đạo Phật, nghiệp cũng có nghĩa là hành động, nhưng ở đây chúng ta
có những hậu quả ngắn hạn và dài hạn.
Thí dụ, chúng ta có thể nói rằng có một động cơ tiêu cực nào đó phía sau
một hành động giận dữ. Với động cơ ấy sẽ
đi đến một loại hành vi thân thể thô tháo nào đó và hành vi tinh thần tiêu cực
tạo nên một loại không khí tiêu cực và khó chịu. Đây là một hậu quả ngắn hạn, và trong thời khắc ấy hành vi để lại dấu
ấn trong tâm thức. Dấu ấn này để lại
trên cái "tôi" và được mang theo bởi sự tương tục của tâm thức, hay
cái "tôi", và chúng ta bắt đầu trải nghiệm những tác động khi và khi
dấu ấn, dấu vết, hay hạt giống ấy đối diện với những điều kiện ngoại tại.
Khi
chúng ta nói về chết, nó liên hệ đến sự hòa tan của tâm vi tế. Một sự giải thích vi tế hơn có thể tìm thấy
trong tám giai tầng của định an chỉ. Đây
thật sự là một chủ đề đặc biệt mà chúng ta nên học tập.
HỎI: Sân hận
là sự thật. Nó phải cùng tồn tại với hạnh
phúc; thế thì tại sao chúng ta phải kiểm soát nó?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA:
Nếu bạn hỏi các bác sĩ, họ sẽ nói với bạn
rằng chúng ta có thể hành động mà không cần đến giận dữ trong đời sống chúng
ta. Bạn sẽ cảm nhận sung sướng hơn và hạnh
phúc hơn nếu bạn cố gắng để giảm thiểu tối đa sân hận. Do vậy, câu hỏi giá trị thật sự là có thể giảm
thiểu được sân hận hay không?
HỎI: Tôi
không hiểu tại sao chấp trước làm chúng ta đau khổ bởi vì tôi mạnh mẽ lên nhờ
chấp trước, đặc biệt khi tôi bị quấy rầy.
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA:
Chấp trước như một nguyên nhân của khổ
não liên hệ đến đặc trưng thứ ba của khổ não:
khổ não cùng khắp (hành khổ). Sân
hận nối kết trực tiếp với nó khi sân hận đưa chúng ta đến đặc trưng thứ nhất của
khổ não (khổ khổ), trái lại chấp trước đưa chúng ta đến đặc trưng khổ não thứ
hai và thứ ba (hoại khổ và hành khổ). Thân thể này của chúng ta tồn tại được do bởi
chấp trước. Nên bạn thấy, qua chấp trước
và sân hận, những loại khổ não khác nhau hiện hữu; vì vậy chấp trước thật sự là
căn bản của sân hận.
HỎI: Xin giải thích một
kỷ năng giản dị để giảm thiểu sân hận.
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA:
Một sự thẩm tra phân tích hơn về khuyết điểm thật sự của sân hận sẽ rất hữu
ích. Sân hận phá hoại sự hòa bình của
tâm thức và tạo nên những rắc rối xa hơn.
Nếu chúng ta nhìn vào lịch sử thế giới, chúng ta có thể thấy tất cả sự
tàn phá, khốn khổ của nhân loại và khổ não chính yếu được tạo nên bởi thù hận
và giận dữ. Những câu chuyện vinh quang
về tốt lành liên hệ chung quanh lòng vị tha.
Do vậy, chúng ta sẽ nhận ra rằng sân hận thật sự vô giá trị. Nếu ai đấy chấp nhận lý thuyết tái sanh và
nghiệp báo (nhân quả), những phương pháp khác có thể được sử dụng để giảm thiểu
sân hận. Những rắc rối gia đình hầu hết
bị tạo ra bởi sân hận. Vì thế, chúng ta
có thể học hỏi từ những kinh nghiệm của người khác.
HỎI: Khi môi
trường bị ô nhiễm, có thể phát sinh một thể trạng thanh tịnh của tâm thức
không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA:
Có một mối quan hệ chắc chắn giữa môi trường ngoại tại và tâm thức. Do vì ô nhiễm, não bộ không thể hiện chức
năng một cách tốt đẹp; có một loại u tối, chậm lụt. Nhưng không thể có một tâm thức thanh tịnh lại
chứa đựng một môi trường ô nhiễm.
HỎI: Tánh không là gì?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA:
Tánh không là tánh không; câu trả lời không dễ dàng. Chúng ta phải đi vào chi tiết và chiều sâu
hơn. Nó cần hàng tháng và hàng năm trước
khi chúng ta đi đến một sự thấu hiểu về nó.
Constitution
Club Lawns, 1988
Nguyên
tác: The
Two Truths trích từ quyển Live in a Better Way
Ẩn
Tâm Lộ ngày 30/9/2012 10:44:42 AM
[1] Bốn
Chân Lý Cao Quý- Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển dịch
[2] BỐN
PHÁP ẤN CỦA ĐẠO PHẬT - Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển dịch
[3] Vaibhasika,
Sautrantika, Cittamatra, và Madhyamika
[4]
Nay là vùng Thanh Hải, một tỉnh Tây Bắc của Trung Hoa.
No comments:
Post a Comment