Bốn
năm đã trôi qua từ khi chúng ta gặp lần cuối trong tòa nhà này. Bốn năm có nghĩa là 1,460 ngày. Ngày và đêm đến và đi không ngừng nghĩ không
cần quan tâm chúng ta có sử dụng chúng một cách thích đáng hay không. Chúng không bao giờ chờ đợi cho điều gì đấy tốt
lành. Không chỉ ngày và đêm mà hơi thở
của chúng ta cũng thế, là một tiến trình diễn biến liên tục. Trong thực tế, bản chất thay đổi không ngừng
là sản phẩm của nguyên nhân của sự tồn tại của nó - hơi thở; và tiến trình thay
đổi năng động này mà chúng ta thấy xuyên ngang qua hình ảnh của thực tại là sản
phẩm của chính nguyên nhân của tạo hóa.
Cấu
trúc của thân chúng ta hay những hạt thân thể cũng luôn luôn thay đổi, nhưng một
cách căn bản chúng sinh chúng ta là giống nhau hoàn toàn, có cùng tâm thức giống
nhau và khao khát giống nhau. Chúng ta
muốn hạnh phúc hơn, và muốn vượt thắng khổ đau.
Không có sự khác nhau giữa con người hay thú vật hay côn trùng về khao
khát cho hạnh phúc và khao khát để vượt thắng khổ đau được quan tâm đến. Tuy thế, sự khác nhau là, do bởi trí thông
minh của con người và trí nhớ của con người, chúng ta có thể thẩm tra tiến
trình của khổ đau từ một nhận thức rộng rãi hơn. Triết lý hay tôn giáo đã đi đến hiện hữu trên
căn bản ấy.
Bởi
vì chúng ta có thân và tâm, chúng ta trải nghiệm đau khổ và khoái lạc. Khổ đau và khoái lạc cũng lệ thuộc một phần lớn
trên thái độ tinh thần của chúng ta.
Trong một sự thẩm tra gần gũi, chúng ta thấy rằng đau khổ và khoái lạc
thân thể có thể bị chinh phục bởi những điều kiện tinh thần. Ngay cả tình trạng có thể liên hệ đến những
hoàn cảnh gian khổ, khó khăn hay ngay cả đau đớn, nếu thể trạng tinh thần của
chúng ta tĩnh lặng hay nếu chúng ta có một sự thấu hiểu thích đáng hay chính kiến,
khó khăn thân thể có thể hữu dụng. Trong
những trường hợp như vậy, mặc dù chúng ta cảm thấy đau đớn, thái độ tinh thần
cua chúng ta có thể làm cho chúng ta cảm thấy vui sướng hay hoàn toàn thoải
mái. Vì vậy, chúng ta có thể vượt thắng
khổ sở và đau đớn với năng lực của một tâm thức và thái độ đúng đắn.
Trái
lại, nếu thể trạng tinh thần đang khổ đau, thế thì sự thoải mái thân thể không
thể được chinh phục. Do thế, thể trạng
tinh thần là siêu việt. Mọi người có thể
rèn luyện tâm thức - sự chuyển hóa tâm thức có thể thay đổi thái độ của chúng
ta, và làm rộng rải quan điểm hay nhận thức của chúng ta.
Có
hai trình độ của tâm linh: một là tâm linh không có tín ngưỡng, và thứ kia với
niềm tin tôn giáo. Tôi cảm thấy rằng đặc
trưng đầu tiên là rất quan trọng, bởi vì hầu hết mọi người, ngay cả nhưng ai được
sinh ra trong một tôn giáo này hay tôn giáo khác, không để sự lưu ý đến niềm
tin tôn giáo trong đời sống hàng ngày của họ.
Người ta quan tâm nhiều hơn về tiền bạc hay những thoải mái vật chất. Trong ý nghĩa ấy, đại đa số mọi người trong
thế giới hiện nay là những kẻ không tín ngưỡng.
Một
trong những vấn nạn mà chúng ta đối diện ngày nay là những thứ nhân tạo hay các
sản phẩm được con người tự tạo ra một cách chính yếu; và trong ý nghĩa ấy dường
như là điều gì đấy thiếu vắng trong cung cách suy nghĩ hay nhận thức của chúng
ta. Như một kết quả, không có bất cứ xu
hướng nào mà qua việc thiếu cái nhìn xa và một sự bất cẩn nào đấy, chúng ta cho
phép những vấn đề nào đó leo thang mức độ vào trong các rắc rối tạo nên những hậu
quả kinh khủng. Do vậy, một loại tâm
linh đặc biệt nào đấy không có niểm tin tôn giáo đặc thù là cả quan trọng lẫn
thích đáng. Thật là sai lầm để nghĩ rằng
những quan niệm về từ ái, bi mẫn và tha thứ chỉ đơn thuần là những chủ đề của
tôn giáo. Một sự thấu hiểu hẹp hòi đã
làm cho chúng ta nghĩ rằng những vấn đề đạo đức này không thể được thực tập
trong niềm tin tôn giáo.
Dĩ
nhiên, những vấn đề này bao trùm trong tất cả mọi tôn giáo quan trọng. Tuy nhiên, nếu chúng ta nghĩ một cách sâu xa,
niềm tin tôn giáo và các khái niệm về từ ái, bi mẫn, tử tế và tha thứ là khác
biệt một cách căn bản. Theo Đạo Phật,
khi một đứa trẻ ra đời, chúng không có niềm tin ý thức hệ hay tôn giáo. Trong một cách, chúng ta có thể nói rằng vào
lúc ấy, đứa trẻ tự do khỏi bất cứ niềm tin ý thức hệ hay tôn giáo. Nhưng trong thời gian ấy, nhận thức của đứa
trẻ và nhu cầu về tình cảm con người là rất mạnh. Không có tình cảm của cha mẹ, đứa trẻ không
thể sống còn. Tuy thế, đứa trẻ có thể tồn
tại mà không cần niềm tin tôn giáo.
Trong trường hợp của thú vật, rõ ràng không có tôn giáo, niềm tin hay hiến
pháp, nhưng chúng cũng biết săn sóc con cái của chúng như thế nào. Chúng chăm sóc, và chúng cũng có một ý thức vị
tha. Thú vật có khả năng để phát triển
lòng vị tha giới hạn, nhưng không giống như con người, chúng không thể phát triển
lòng vị tha vô hạn. Thí dụ, một con thú
có thể liếm những vết thương của một con thú khác và cố để giúp nó. Thú vật có trí thông minh giới hạn và cũng có
trí nhớ giới hạn, mà nếu so sánh với con người thì quá nghèo nàn. Tuy thế, chúng thật sự có trí nhớ. Những loại thú khác nhau có những mức độ
thông minh và một số có trí thông minh để phán đoán và xử lý một tình thế thật
tài tình. Mặc dù chim chóc và thú vật có
một loại thông minh nào đấy, nhưng con người có trí thông minh sâu xa hơn và một
khả năng rộng lớn hơn để phát triển lòng vị tha vô hạn và một trí nhớ đầy năng
lực. Do vậy, trí thông minh và khả năng của
con người để phát triển lòng vị tha là đặc biệt đối với con người.
Đời
sống là một tiến trình tiếp diễn và thay đổi liên tục. Thời gian trôi qua và không có điều gì duy
trì giống như vậy mãi mãi. Do thế, chúng
ta nên có một sự tỉnh thức rõ ràng về việc sử dụng thời gian một cách thích
đáng và có tích cách xây dựng như thế nào.
Nhằm để thực hiện đời sống đầy đủ ý nghĩa và có chủ tâm, sự thông minh kỳ
diệu và khả năng đặc biệt của chúng ta nên được bàn đến một các đầy đủ nhất. Là một người không tín ngưỡng và duy trì như
thế thì được thôi, nhưng chúng ta nên là một người với trái tim nồng ấm và
không sử dụng trí thông minh của mình một cách tàn hại. Sự thông minh của chúng ta chắc chắn không
dành cho sự tàn phá. Nếu chúng ta tạo ra
sự đau đớn cho kẻ khác, một cách căn bản chúng ta sẽ khổ đau - đó là luận lý
đơn thuần, hay logic duy nhất. Nếu chúng
ta ban tặng niềm vui cho người khác, cuối cùng chúng ta sẽ nhận được sự toại
nguyện. Chúng ta có thể đón nhận phần
thưởng vật chất, nhưng chẳng hề gì - một cách tinh thần chúng ta sẽ toại nguyện
một cách mênh mang. Do thế, nhằm để sống
một cuộc đời đầy đủ ý nghĩa và hạnh phúc, những đặc trưng vô song của con người
về thông minh, khả năng của lòng vị tha hay ý nghĩa của lòng nhân ái nên được sử
dụng một cách xây dựng. Từ ái, bi mẫn và
một ý nghĩa tha thứ, tôi tin, là một bộ phận bản chất tự nhiên của con người. Niềm tin phát triển sau này. Với niềm tin, chúng ta có thể có một đời sống
hạnh phúc, nhưng không có ý nghĩa yêu thương, chí nguyện hay trách nhiệm, chúng
ta không thể hạnh phúc hay thành công.
Mọi
người cần săn sóc sức khỏe của mình. Một
tâm thức hạnh phúc và tĩnh lặng có một sự ảnh hưởng rất tích cực trên sức khỏe
của chúng ta. Nếu chúng ta liên tục lo lắng
hay băn khoăn, chúng ta hủy hoại sức khỏe của chúng ta. Khoa học y dược hiện đại đang bắt đầu nhận ra
sự nổi bật của nhân tố tinh thần là thiết yếu cho sức khỏe.
Cho
một gia đình, xã hội, và cộng đồng hạnh phúc, những yếu tố tinh thần nội tại
này là những nhân tố quyết định. Đôi khi
tôi nghĩ rằng chúng ta quan tâm quá xa với hành động hay kết quả mà không để ý
đến động cơ hay nguyên nhân và điều kiện của hành động hay sự kiện đặc biệt. Thỉnh thoảng khi những thảm họa xảy ra, mọi
người bị sốc, mọi người không vui. Nhưng
người ta không chú ý đủ đến những nguyên nhân và điều kiện (nhân duyên) của những
thảm họa ấy. Một khi mà nguyên nhân và
điều kiện đã phát triển một cách đầy đủ, không có năng lực nào có thể ngăn ngừa
thảm họa khỏi xảy ra. Đó là luật nhân quả. Tôi nghĩ rằng yếu tố nội tại hay yếu tố tinh
thần là rất quan trọng hay liên quan, đặc biệt trong thế giới ngày nay. Thực tế đã thay đổi - một cách đặc biệt trong
thế kỷ này. Đây là qua kỷ thuật, thông
tin, và một sự tỉnh thức sâu xa hơn về thực tế, dân số và những rắc rối do con
người tạo nên chẳng hạn như ô nhiễm và những nhân tố khác. Con người sống ở thủ đô Delhi bây giờ đang trải
nghiệm những hậu quả của "việc làm tốt" hay có lẻ là sự cẩu thả của
những thập niên trước.
Mặc
cho những thay đổi, dường như rằng các nhận thức và thái độ của chúng ta tụt hậu
phía sau với thời gian. Trong thế giới
và thực tế ngày nay, sự khác biệt giữa những quốc gia và khoảng cách giữa những
lục địa không còn liên quan nhiều nữa. Cả
hành tinh là rất nhỏ. Khi chúng ta nhìn vào trái đất từ bên ngoài
không gian, hình ảnh chúng ta có là một quả cầu nhỏ bé và điều này, trong thực
tế, là thân phận của trái đất. Thật quan
trọng đối với chúng ta để chấp nhận điều này vì thế chúng ta có thể thay đổi
cung cách suy nghĩ của chúng ta.
Trong
xứ sở này, sự hiện hữu của một người liên hệ một cách gần gũi đến sự tồn tại của
những người khác. Kinh tế, giáo dục và
nhiều lĩnh vực khác là liên hệ hổ tương
một cách sâu đậm. Những khái niệm về
"chúng ta" và "họ" không còn thích đáng nữa. Cả thế giới giống như một bộ phận của thân
thể chúng ta. Thí dụ, hãy lấy cái chân
và cái tay của chúng ta. Nếu có một cơn
đau nào ở chân tôi, tay tôi sẽ đi đến đó
và xoa bóp cũng như chăm sóc, nuôi dưỡng nó.
Tương tự thế, láng giềng của chúng ta có thể có một rắc rối nghiêm trọng
nào đấy; nhưng anh ta vẫn là láng giềng của chúng ta và là một bộ phận của cộng
đồng chúng ta. Chúng ta phải phát triển
một ý thức của từ bi, quan tâm, và một ý thức liên hệ bởi vì sự tàn phá láng giềng
của chúng ta, hay quốc gia lân bang của chúng ta thì thật sự là một sự tàn phá
chính chúng ta. Dưới những hoàn cảnh như
thế, chúng ta cần một cái nhìn rộng rãi hơn để nhìn vào nhân loại như một gia
đình loài người. Vâng, có những chủng tộc
khác nhau, phong tục khác nhau, tôn giáo khác nhau - nếu chúng ta muốn tìm kiếm
những sự khác biệt, luôn luôn có thể tìm ra chúng. Mặc dù vậy, chúng ta cùng chia sẻ một hành
tinh nhỏ, và nếu người khác khổ đau, cuối cùng chúng ta sẽ đau khổ. Nếu chúng ta hạnh phúc, người ta cũng sẽ lợi
lạc. Nên trong sự quan tâm này, chúng ta
cần một ý thức trách nhiệm toàn cầu, một trách nhiệm phổ quát.
Nếu
chúng ta nghĩ nhiều hơn về người khác,
thế thì một ý thức về quan tâm sẽ phát triển.
Cách suy nghĩa này mang đến sức mạnh nội tại nhiều hơn. Quan tâm đến người khác làm chúng ta cảm thấy
rằng người khác an bình. Trái lại, nếu
chúng ta chỉ nghĩ về chính mình, nó duy trì một cảm giác về không thỏa đáng
trong chính mình. Nhưng vẫn có cảm giác
chúng ta cần hơn nữa, và loại cảm giác này tự động mang đến nghi ngờ, kết quả
trong sự băn khoăn và bất an. Cùng tâm thức, với cùng những quan tâm về đau
đớn và khổ sở, quan tâm chỉ với nổi đau và niềm hạnh phúc của chính mình. Điều này tạo nên sự trống trải kết quả là sợ
hãi và không an toàn. Nhưng cùng thái độ
với quan tâm cho người khác với đau đớn và khổ sở mang đến sức mạnh nội tại. Lo lắng về chính mình mang đến sợ hãi hơn,
nghi ngờ hơn. Và nghi ngại và ngờ vực
luôn luôn đồng hành với một cảm giác của bất an và cô đơn.
Nếu
chúng ta vị kỷ, nên vị kỷ một cách thông tuệ.
Nếu chúng ta luôn luôn nghĩ về mình, cuối cùng sẽ mang đến khổ đau
hơn. Vì thế chúng ta nên nghĩ về người
khác vì những lợi ích của chúng ta. Nếu
chúng ta phân tích đời sống hàng ngày của
mình và cũng quán chiếu cuộc sống của láng giềng, một cách căn bản chúng ta sẽ
phát triển một loại niềm tin vửng chắc nào đấy.
Lòng vị tha vì thế lợi ích cho người khác và cũng mang đến lợi lạc vô
biên cho chính chúng ta.
Mỗi
con người, cho dù có học vấn hay không, giàu hay nghèo, hay bị biến dạng thân
thể đều có khả năng để phát triển một số phẩm chất căn bản nào đó của con người. Từ lúc sinh ra tất cả chúng ta có khả năng để
phát triển những phẩm chất và giá trị tốt đẹp của con người. Do thế, chúng ta phải làm mọi nổ lực đẻ gia
tăng và củng cố chúng với sự vững vàng.
Trái lại, thù hận và quá nhiều nghi ngờ không có giá trị gì, cũng không
thể đem đến một kết quả tốt đẹp. Thù hận
và cảm giác bệnh hoạn đối với láng giềng sẽ không làm tổn hại hay làm cho khốn
cùng, nhưng thù hận hay cảm giác bệnh hoạn sẽ trực tiếp làm tổn hại niềm an
bình trong tâm thức của chính chúng ta.
Thí dụ, nếu chúng ta có vấn đề với láng giềng của chúng ta, và muốn láng
giềng của chúng ta khổ đau trong một trạng thái tương tự, đối tượng không thể đạt
được hay hoàn thành sự khao khát. Trái lại,
nếu chúng ta có cảm giác tiêu cực đối hàng xóm, cuối cùng nó sẽ tàn phá sự lĩnh
hội và tâm thức của chúng ta và làm cho chúng ta cực kỳ bất an. Con cái, vợ hay chồng người ấy cuối cùng sẽ
khổ đau.
Trong
kinh nghiệm của tôi, người càng tĩnh lặng thì càng nghĩ đến và thực tập lòng vị
tha và những thứ tốt đẹp thánh thiện khác, và càng lợi lạc hơn cho chính người ấy. Thể trạng tâm linh, những phẩm chất này, rất
liên hệ và hữu ích cho một đời sống hạnh phúc và thành công. Bằng việc quán chiếu theo những dòng này,
chúng ta cuối cùng trở nên vững tin rằng sân giận và thù hận là rất tệ hại cho
đời sống và sức khỏe chúng ta. Một thái
độ từ bi và một ý thức thương yêu là tốt lành không chỉ cho sự hòa bình của tâm
thức chúng ta mà cũng rất tốt đẹp cho sức khỏe chúng ta. Một khi chúng ta đã phát triển một sự tỉnh thức
trong sáng về những khía cạnh tích cực và tiêu cực của những tư tưởng khác biệt
này, điều này trong tự nó tác động đến thái độ của chúng ta, mang đến sự chuyển
hóa tâm thức của chúng ta. Đây là một
trình độ tâm linh. Hãy là một người với
trái tim nồng ấm, một con người trung thực lương thiện. Cho dù nó có ý nghĩa gì đi nữa, chính sự hiện
hữu của chúng ta là một thực tế. Thật
quan trọng để sử dụng sự tồn tại của chúng ta cho những mục tiêu xây dựng.
Tại
trình độ thứ hai, đối với những người
tin tưởng, tôi muốn nói rằng những gì tôi đã nhấn mạnh nhiều lần trong quá khứ - rằng một khi chúng ta chấp
nhận một niềm tin tôn giáo, chúng ta nên thực hành giáo huấn của tôn giáo ấy
nhiều nhất mà chúng ta có thể. Nói cách
khác, giáo huấn hay tín ngưỡng ấy phải là một bộ phận trong đời sống của chúng
ta. Nếu chúng ta thực thi giáo lý, rồi
thì khi thời gian trôi qua , năm này qua năm khác, một loại chuyển hóa từ từ sẽ
xảy ra và chúng ta sẽ đón nhận những lợi lạc thật sự. Chỉ bằng việc dâng lời cầu nguyện hay trì tụng
những mật ngôn nào đó, chúng ta sẽ không tạo nên nhiều ảnh hưởng. Tập quán của các Phật tử và tín đồ Ấn Giáo là
hiến cúng hàng ngày trước những biểu tượng chẳng hạn như thần Ganesh[1],
Đức Phật, Bồ tát Tara hay thần Shiva. Một
sự cúng dường bông hoa, trái cây hay hương đèn được thực hiện và tên của vị thần
được lập đi lập lại mà không có nhiều thiền quán. Tương tự thế, chỉ tụng mật ngôn hay cầu nguyện
sẽ không có nhiều ảnh hưởng.
Bất
hạnh thay, nhiều môn nhân hay tín đồ tiến hành một nghi thức hằng ngày và không
có gì hơn. Như vậy không đủ. Chúng ta cần đi sâu hơn bên trong tâm hay thức
của chúng ta. Không có điều này, nhận thức
của chúng ta, đời sống của chúng ta hay cung cách suy nghĩ của chúng ta không
thể thay đổi.
Nếu
chúng ta tiếp nhận một tôn giáo, chúng ta thật nghiêm túc và thực hành giáo huấn
ấy. Thế rồi, cuối cùng, sẽ có một sự
thay đổi thật sự. Điều này rất quan trọng. Thí dụ, hãy lấy cộng đồng Tây Tạng, đại đa số
là Phật tử, nhưng thái độ thực hành của họ không đầy đủ qua việc thiếu tỉnh thức
hay kiến thức về Phật Pháp. Nhiều người Ấn
Giáo cũng tương tự như vậy.
Nhiều
kinh luận đã được chuyển dịch từ nguồn gốc Phạn ngữ sang Tạng ngữ. Trong những kinh luận Đạo Phật này có những
liên hệ và trích dẫn từ nhiều sách vở triết lý không thuộc truyền thống Phật Giáo cổ xưa của Ấn Độ. Do vậy, có những sự giải thích thuộc về giải
thoát và đạt đến mục tiêu này qua thiền tập, tam muội thiền hay thiền chỉ
(samadhi) và liễu biệt thiền hay thiền quán (vipassana).
Trong
ba mươi năm qua ở Ấn Độ, tôi đã có nhiều cuộc gặp gở nhiều vị thầy . Ngoại trừ một ít, tất cả họ dường như nói rằng
sau khi một người tiếp nhận một tôn giáo, bước tiếp theo là học hỏi, rồi thì tiếp
theo đấy bằng việc áp dụng, mà điều này là quan yếu. Đối với việc học hỏi, môn nhân không chỉ bao
hàm đơn thuần việc trì tụng chân ngôn hay cầu nguyện và giữ việc lần chuỗi. Những thiền giả lớn hành thiền không có bất cứ
xâu tràng hạt nào. Họ chỉ đơn giản nhìn
vào tâm thức họ, phân tích các hiện tượng và tư duy sâu lắng. Đấy là cung
cách thích đáng. Ngay cả trong
kinh điển đề cập đến tantra du già, hay bổn tôn du già, sự thực tập chính là
thiền quán. Khi mệt mõi, hành giả có thể
trì tụng chân ngôn. Người ta thường trì
tụng mà không thực hành bất cứ sự thiền tập nào. Điều này không chỉ sai sót, mà cũng là không
đầy đủ.
Một
khi đã tiếp nhận hay công nhận một tôn giáo, chúng ta nên thật chân thành và thật
nghiêm túc. Tuy thế, nếu chúng ta quá
nghiêm khắc hay đầu óc hẹp hòi, có hiểm họa trở nên những gì gọi là người theo
trào lưu chính thống [cực đoan]. Nếu
tôn giáo không được thực hành một cách thích đáng, thế thì có hiểm họa chỉ tin
tưởng trong tôn giáo của riêng mình mà thôi và chối bỏ những tôn giáo khác, vì
thế trở thành người theo trào lưu cực đoan.
Tôi
muốn chia sẻ những quan điểm của tôi về sự hòa hiệp những truyền thống tôn giáo
khác nhau. Tôi là một Phật tử; và đôi
khi tôi tự diễn tả chính mình như một Phật tử vững vàng,bởi vì đối với tôi, sự
thực tập Đạo Phật là tuyệt nhất, và những giảng giải là rất hợp luận lý. Tôi thật sự tin tưởng rằng đối với tôi Đạo Phật
là tuyệt hảo, nhưng chắc chắn nó không phải tuyệt hảo cho tất cả những người
khác. Những con người với các vị thế
tinh thần khác biệt cần những tôn giáo khác nhau. Một tôn giáo đơn giản là không thể hài lòng tất
cả mọi người. Do vậy, đối với cá nhân,
khái niệm về một tôn giáo và một chân lý là rất quan trọng. Không có điều này, chúng ta không thể khai
triển một tín ngưỡng chân thật và theo đuổi nó một cách chân thành. Với việc quan tâm đến cộng đồng, chúng ta rõ
ràng cần khái niệm vài tôn giáo và vài chân lý - chủ nghĩa đa nguyên. Điều này là cả cần thiết lẫn thích đáng. Đây là cách để vượt thắng những mâu thuẩn giữa
một vài tôn giáo và một vài chân lý cùng một tôn giáo và một niềm tin. Vì vậy, tôi tin rằng một người có một tôn
giáo và một chân lý trên trình độ cá nhân, và một người có vài tôn giáo và vài
chân lý trên trình độ cộng đồng. Bằng
khác đi, thật khó để giải quyết rắc rối này.
Sẽ
là một hành động đạo đức giả khi nói rằng tất cả các tôn giáo là giống
nhau. Những tôn giáo khác nhau có những
quan điểm và nền tảng khác nhau. Nhưng
không hề gì, khi tất cả tôn giáo đều có mục tiêu hổ trợ trong việc mang đến một
thế giới tốt đẹp hơn và những con người hạnh phúc hơn. Trên trình độ này, tôi nghĩ qua những giảng
giải triết lý và phương pháp khác nhau, tất cả các tôn giáo có cùng mục tiêu
cũng như khả năng. Lấy khái niệm của đấng
sáng thế và tự sáng tạo làm thí dụ. Có
những khác biệt lớn lao giữa hai thứ, nhưng tôi cảm thấy chúng có cùng ý hướng. Đối với một số người, khái niệm đấng sáng thế
là rất năng lực trong sự thôi thúc việc phát triển kỷ luật tự giác, trở nên một
con người tốt với một ý thức của từ ái, tha thứ và hiến dâng đến chân lý tối hậu
- Đấng Tạo Hóa hay Thượng Đế.
Khái
niệm khác là tự sáng tạo: Nếu chúng ta muốn tốt lành, thế thì phải là trách nhiệm
cá nhân. Không có nổ lực cá nhân chúng
ta không thể mong đợi điều gì đấy tốt đẹp sẽ đến. Tương lai của chúng ta là hoàn toàn lệ thuộc
và chính chúng ta: đấy là tự sáng tạo.
Khái niệm này là rất năng lực
trong việc thúc đẩy một cá nhân trở thành một con người lương thiện và tử tế. Vì vậy chúng ta thấy, hai sự tiếp cận khác biệt
nhưng có cùng mục tiêu.
Nhiều
người trong chúng ta biết Bốn Chân Lý Cao Quý, giáo huấn nổi tiếng của Đức Phật. Đây là nền tảng của Phật Pháp. Kém may mắn thay, nhiều Phật tử tin rằng Đại
thừa, Tiểu thừa và Kim Cương thừa là bà thừa xung khắc với nhau. Điều này không đúng.
Trong
những năm ba mươi, bốn mươi, và năm mươi, một số học giả phương Tây đã diễn tả
Đạo Phật Tây Tạng như Lạt Ma Giáo, hàm ý rằng Phật Giáo Tây Tạng không phải là
Đạo Phật thuần túy - điều này bị đầu độc thế nào đấy. Phật Giáo Tiểu thừa hay Theravada là nền tảng
của Phật Pháp. Bốn Chân Lý Cao Quý, Ba
Mươi Bảy Phương Diện của con đường đến Giác Ngộ , Ba vô lậu học (rèn luyện cao
độ về đạo đức, tập trung, và tuệ trí hay tuệ giác - tức là giới, định, tuệ) là
cốt lõi nền tảng của giáo lý Tiểu thừa hay Theravada. Không có những thứ này, làm sao chúng ta thực
tập Đại thừa?
Đôi
khi, những ai theo truyền thống Đại thừa cảm thấy rằng họ theo chiếc xe lớn và
xem thường giáo lý Tiểu thừa. Tôi nghĩ rằng
điều này rất sai lầm. Trái lại, một số
người theo truyền thống Tiểu thừa cảm thấy rằng tư tưởng của trường phái Đại thừa
bị nhiễm ô, và không phải là một bộ phận của Đạo Phật chân thật. Không có giáo lý Đại thừa, thật khó khăn để
thấu hiểu niết bàn và giải thoát. Không
có sự thấu hiểu về tính không - khái niệm về sunya - thì rất, rất khó để thấu
hiểu khả năng hay khái niệm niết bàn. Dĩ
nhiên, chúng ta có thể nói rằng có niết bàn tuyên bố rằng có niết bàn và chính
Ngài đã đạt đến, thì phải có niết bàn.
Loại tín ngưỡng mù quáng này cũng được thôi; nhưng chỉ qua liễu biệt thiền,
thiền phân tích, hay thiền quán thường xuyên, và bằng việc thẩm tra chức năng
và bản chất tự nhiên của tâm thức, thực tại của các hiện tượng và bản chất của
cảm xúc tiêu cực, mà cuối cùng chúng ta mới có thể phát triển một cảm nhận về giải thoát hay niết
bàn.
Không
có những giải thích chi tiết của sáu đại sư của Ấn Độ - Long Thọ, Thánh Thiên,
hai đại đạo sư của Luận tạng và những vị khác - thật khó khăn để thấu hiểu khái
niệm của niết bàn và diệt tận định. Tất
cả những đạo sư này là những bậc thầy của Đại thừa và là những tu sĩ. Các ngài thực tập giáo huấn Tiểu thừa, áp dụng
việc thực hành Luận tạng, tiếp tục là những tỳ kheo gương mẫu và hoằng truyền
giáo huấn Đại thừa.
Một
số người tin tưởng rằng Tiểu thừa, Đại thừa và Kim Cương thừa là một loại
phát
triển theo niên đại lịch sử, hay theo thứ tự thời gian; nhưng như một Phật tử,
tôi không đồng ý với điều này. Nếu chúng
ta muốn một sự thấu hiểu quy ước về sự tiến hóa của những giáo huấn này, thì có
thể khai triển một cách giải thích lịch sử về những 'thừa' khác nhau.
Giáo
huấn Đại thừa là một truyền thống diệu kỳ, nhưng không có sự thực tập giáo lý
căn bản Tiêu thừa, chúng ta không thể là một Phật tử chân thành. Vậy thì, chúng ta cần thực tập giáo thuyết Tiểu
thừa như một nền tảng và rồi thực tập giáo huấn của Đại thừa Hiển giáo, mệnh
danh là, lòng vị tha vô hạn là điều dược phát triển từng bước một qua những kỷ
năng nào đấy. Tương tự thế Kim Cương thừa
sử dụng Tiểu thừa như một nền tảng , Đại thừa Hiển giáo như sự bổ sung thứ hai,
và Đại thừa Mật giáo hay Kim Cương thừa như thành phần thứ ba. Đấy là cung cách của một hành giả Kim Cương
thừa thật sự. Không có hai 'thừa' trước,
Mật thừa chỉ là cái tên. Việc sử dụng những
trang phục ấn tượng, y áo nghi lễ và những chân ngôn không biểu thị đặc điểm của
hành giả Kim Cương thừa thật sự. Dĩ
nhiên, có một số tồn tại ngoại lệ nào đấy, nhưng nói một cách tổng quát, đây là
quy tắc căn bản của Phật Pháp. Và khi chúng ta liên hệ đến nó, thì rất quan trọng
để tuân theo quy tắc căn bản.
Như
tôi đã đề cập trước đây, việc liên hệ đến Phật Giáo như Lạt Ma Giáo là sai bởi
vì nó không phải được sáng chế bởi những lạt ma Tây Tạng. Bất cứ khi nào chúng ta đi ngang quan một điểm
quan trọng, chúng tôi luôn luôn trích dẫn một đạo sư Ấn Độ đáng tin cậy. Phương pháp chứng minh xác thực này về một điểm
hay một vấn đề đặc thù bằng việc trích dẫn những kinh sách Ấn Độ như một thẩm
quyền tối hậu là được chấp nhận một cách rộng rãi, trong vài trường hợp, những
quan điểm nào đó bị bác bẻ trên những nền tảng rằng chúng không có căn bản
trong bất cứ kinh sách Ấn Độ xác thực nào.
Một
đạo sư Tây Tạng đã giải thích luận điển của một trong những đạo sư Ấn Độ, người
để cập Tây Tạng như Vùng Đất Tuyết bởi vì màu trắng của những ngọn núi ở đấy. Tuy nhiên, không có ánh sáng của những đạo sư
Ấn Độ, Tây Tạng vẫn tiếp tục tối tăm và mù mịt bất chấp màu trắng của tuyết. Vì vậy, những đạo sư Ấn Độ vĩ đại này thật sự
là người khai mở tâm tư của những người Tây Tạng.
Những
luận sư Tây Tạng dường như đã phát triển một truyền thống chú giải những văn bản
cổ xưa rất phức tạp để có thể thấu hiểu và học hỏi những luận thư cổ điển Ấn Độ,
vì thế bất cứ khi nào một luận thư cổ được luận bàn, có một phương pháp so sánh
để đem những điểm đa dạng với nhau tại vấn đề đang bàn thảo và những đàm luận từ
những khía cạnh khác nhau để phê bình kịch liệt ngay tại một điểm duy nhất. Phương pháp của khoa chú giải đa diện trong
truyền thống luận giải Tây Tạng là rõ ràng không thể chối cải được. Tất cả những đạo sư Tây Tạng này đã làm nên một
sự cống hiến vĩ đại. Tuy vậy, căn bản của
tất cả những việc làm to tát này được hình thành và làm cho tinh tế hơn bởi những
đạo sư Ấn Độ. Do vậy, quan niệm rằng Đạo
Phật Tây Tạng là Lạt Ma Giáo là không đúng.
Phật Giáo Tây Tạng thật sự là những giáo huấn chân thật của Đức Phật chắc
chắn được kết tập tại những thời điểm khác nhau cho đến khi chúng đến Tây Tạng
như bộ phận thống nhất của kinh luận. Đạo
Phật Tây Tạng do vậy là một hình thức trọn vẹn của Phật Pháp.
Tôi
thường diễn tả căn bản của Phật Pháp trong hai câu: Nếu chúng ta có thể, hãy
giúp đở người khác, phụng sự người khác.
Nếu chúng ta không thể, tối thiểu hãy kiềm chế không làm tổn hại kẻ
khác. Chủ đề căn bản của giáo lý
Theravada là tự giải thoát. Dĩ nhiên,
karuna, hay bi mẫn[2],
cũng liên hệ, mặc dù không bắt buộc. Khuynh hướng chính là tự giải thoát trong khi
phụng sự người khác tối đa mà mình có thể. Căn bản là: đừng làm tổn hại kẻ khác. Trong Đại thừa, sự nhấn mạnh trên lòng vị tha
hay bồ đề tâm, khát vọng đạt đến Quả Phật nhằm để phụng sự hay giúp đở những
chúng sinh khác. Loại tâm Phật ấy là
thông điệp chính hay sự thực tập chính.
Do thế, mahakaruna, đại bi hay lòng bi lớn, là bắt buộc. Đây là nguyên nhân căn bản của lòng vị
tha. Bất chấp những gì xảy ra đến chúng
ta; chúng ta cần giúp đở và phụng sự người khác.
Nhằm
để giúp đở người khác hay kiềm chế khỏi làm tổn hại người khác, cần có lý
do. Không có lý do, thì vô nghĩa. Phải nên có một lý do tại sao chúng ta cần sự thực tập bất bạo động,
và tại sao chúng ta cần phục vụ người khác hay kiềm chế việc làm tổn hại người
khác. Nhân tố căn bản cho việc dấn thân
trong một lối sống bất bạo động, tránh làm tổn hại người khác hay dấn thân
trong lòng vị tha là việc hiểu rõ hay đánh giá đúng về bản chất tương liên
duyên khởi của thực tại.
Giáo
huấn Đạo Phật liên hệ đến ba trình độ hay ba ý nghĩa của duyên khởi. Một là thấu hiểu hiện tượng duyên khởi trong
dạng thức của nguyên nhân và điều kiện;
vì vậy phụ thuộc ở đây là trong ý nghĩa của duyên khởi nhân quả. Thứ hai là lệ thuộc trong dạng thức của khái
niệm về những bộ phận và toàn thể, trong ý nghĩa rằng mỗi hiện tượng bao gồm bởi
những thành phần cấu thành nên nó. Và thứ
ba là cách mà chúng ta thấu hiểu mối liên hệ và căn bản của sự mệnh danh.
Những
đau đớn và vui sướng của chúng ta liên hệ đến chính những nguyên nhân và điều
kiện của nó. Bởi vì chúng ta muốn hạnh
phúc và không muốn khổ đau, chúng ta phải chăm sóc nguyên nhân và điều kiện của
nổi đớn đau và vui sướng của chúng ta. Bằng
việc giúp đở người khác, và bằng việc ban cho, chúng ta trải nghiệm niềm vui sướng
hơn, là điều cho kết quả trong sự thoải mái hơn. Nếu chúng ta làm người khác đau đớn, kết quả
chúng ta sẽ khổ đau.
Những
trải nghiệm hạnh phúc của chúng ta không là kết quả của chỉ một nhân tố, nhưng
nó lệ thuộc trên nhiều nhân tố. Do thế,
chúng ta phải quan tâm đến tất cả những nhân tố khác nhau. Khi chúng ta có một sự thấu hiểu sâu xa hơn về
những giáo huấn duyên khởi của Đạo Phật - rằng ngay cả một sự kiện đơn độc cũng
có những nguyên nhân và điều kiện đa dạng góp phần đến sự kiện ấy - rồi thì
chúng ta thật sự sẽ có một căn bản triết lý căn bản cho nhận thức sinh thái học
- quan tâm cho những qui luật thiên nhiên về môi trường. Khái niệm duyên khởi hay tương liên phụ thuộc
giúp để mở rộng quan niệm của chúng ta.
Nó tự động làm cho chúng ta tỉnh thức về tầm quan trọng của những mối liên
hệ nhân quả, là điều
lần
lượt mang đến một quan điểm thánh thiện hơn.
Ahimsa,
bất bạo động không chỉ là không làm tổn hại người khác, mà nó là một hành vi từ
bi. Duyên khởi là một giáo thuyết rất
quan trọng vì nó mở rộng nhận thức của chúng ta. Chính là trên căn bản diễn giải giáo huấn của
Đức Phật về duyên khởi mà nhiều trường phái triết lý khác nhau đã tiến triển ở Ấn
Độ. Một sự thấu hiểu cơ chế lượng tử về
vũ trụ vật lý dường như đang chỉ đến một loại quan hệ nào đó giữa người quán
sát và đối tượng bị quán sát, và vấn đề những tiến trình tư tưởng của người
quán sát dường như làm nên một tác động trên những hiện tượng được quán sát, là
điều hơn nữa đã tạo ra tiếng vang của Trung Đạo luận về bản chất thực tại.
Căn
cứ trên điều ấy, qua tiến trình phân tích hay thẩm tra triết lý Trung Đạo,
chúng ta đi đến một điểm, nơi mà chúng ta có nhu cầu để hiểu rõ giá trị sự
không tương đồng giữa hiện tướng và thực tại.
Trung Quán nói về những hiện tượng như là vọng tưởng. Do thế, theo Trung Luận, tất cả mọi hiện tượng
là trống rỗng sự tồn tại cố hữu và thực tại có thật hay vô tự tính. Tuy nhiên, có những sự khác biệt giữa những sự
diễn dịch và học giả Ấn Độ khác nhau khi người ta cố gắng để thấu hiểu tuệ giác
vĩ đại này của Long Thọ.
Long
Thọ được thấy bởi truyền thống Tây Tạng như giáo tổ của trường phái Trung
Quán. Thánh Thiên, đệ tử chính của Long
Thọ là người kế tục sự truyền thừa giáo huấn của Long Thọ. Tôn giả Vô Trước được thấy trong truyền thống
Tây Tạng như khai tổ của Cittamatra hay trường phái Duy Tâm của triết học Ấn Độ,
và Thế Thân là người kế thừa của Vô Trước và người thủ hộ vĩ đại của trường
phái Duy Thức trong triết học Ấn Độ.
Những
gì gặp nhau giữa hai trường phái lớn này của Đại thừa trong triết học Ấn Độ -
Trung Quán và Duy Tâm - đấy là sự tán thành hay nhận thức về tầm quan trọng chủ
yếu của kinh điển Đại thừa và kinh Bát
nhã ba la mật đa ("Sự toàn hảo của Tuệ trí') một cách đặc biệt. Khi những nhà Trung Quán diễn dịch những
thành tố và tuyên ngôn trong Ba la mật thừa, nơi Đức Phật được nói đã tuyên bố
rằng tất cả các hiện tượng là trống rỗng bản chất tự nhiên hay là không có thực
chất bên trong, nó được hiểu trong dạng thức của bản chất lệ thuộc tương liên của
thực tại. Trong một cách, bản chất lệ
thuộc tương liên hay duyên sinh về thực chất
được sử dụng như một lý do để hàm ý sự vắng bóng tính tồn tại độc lập
này hay vô tự tính. Nói cách khác, các
ngài trình bày những kinh điển ba la mật - giáo lý về tính không - trong dạng
thức của sự tương liên phụ thuộc hay duyên khởi.
Theo
truyển thống Tây Tạng, Long Thọ được tin là đã hiện diện bốn trăm năm sau Đức
Phật, và Tôn giả Vô Trước khoảng chín trăm năm sau khi Đức Phật niết bàn. Tôn giả Vô Trước được liên hệ trong một số
kinh điển như một bậc thân chứng cao độ, và đã đạt đến địa thứ ba, hay bậc bồ
tát thứ ba của thập địa (Phát quang địa).
Theo truyền thống Tây Tạng, Tôn giả Vô Trước được tin là người thủ hộ
truyền thống Trung Quán của Long Thọ, và lý do cho việc khai diễn dòng truyền
thừa Đại thừa Phật Giáo mới của ngài, là trong sự diễn giải của Long Thọ những
kinh điển Bát nhã Ba la mật, ngài hiểu rõ rằng có một khả năng cho một số người
nào đó bị rơi vào một loại thấu hiểu hư vô của kinh điển Đại thừa. Do thế, thay vì thừa nhận lời tuyên bố rằng tất
cả các hiện tượng là trống rỗng thực chất bên trong, Tôn giả Vô Trước đã khai
triển một sự diễn giải mới cho phép những hành giả tiếp cận kinh điển Đại thừa
và vẫn chấp nhận giá trị của giáo huấn Đức Phật rằng tất cả mọi hiện tượng là
trỗng rỗng thực chất bên trong. Phương
cách sự diễn dịch này là sự vắng bóng thực chất bên trong là được thấu hiểu một
cách khác nhau trong những phạm vi khác nhau - trong ý nghĩa rằng tất cả các hiện
tượng duyên sinh được nói là trống rỗng thực chất của một tiến trình độc lập
trong việc phát sinh, và tất cả các hiện tượng được quy cho và được thành lập một
cách hoàn toàn được nói là trống rỗng thực chất nội tại. Vấn đề đấy là Tôn giả Vô Trước đã khai triển
một sự diễn giải về kinh điển Đại thừa là khác biệt với sự thấu hiểu của Long
Thọ về vấn đề ấy.
Tôn
giả Vô Trước đã diễn giải lời tuyên bố của Đức Phật rằng tất cả các hiện tượng
(vạn pháp) là trống rỗng bản chất nội tại trong dạng thức của những gì được biết
như thuyết ba bản chất - rằng tất cả các hiện tượng sở hữu ba bản chất (tam tự
tính): bản chất tương thuộc (biến kế chấp), bản chất quy nạp (y tha khởi), và bản
chất trọn vẹn (viên thành thật). Ngài đã
giải thích ba bản chất này như có những ý nghĩa trống rỗng thực chất nội tại. Tôn giả không chỉ khai triển phương pháp mới
này để thấu hiểu kinh điển Đại thừa, mà cũng đặt nền tảng sự diễn giải của ngài
trong những lời của Đức Phật. Thí dụ,
trong kinh điển Đại thừa được biết như kinh Giải thâm mật, bản kinh làm sáng tỏ
tư tưởng của Đức Phật được sử dụng như một tài liệu chính để chứng minh tính
xác thật và giá trị sự diễn giải của Tôn giả Vô Trước về kinh điển Đại thừa.
Trong
thuyết ba bản chất này, thứ hai là bản chất quy nạp, và sự vắng bóng của thực
chất nội tại được hiểu trong dạng thức của bản chất quy nạp trỗng rỗng bất cứ đặc
trưng tự xác định nào. Bản chất quy nạp có thể được nói một cách tổng
quát như hiện hữu hai loại. Có thể có những
loại quy nạp nào đó, và có những loại quy nạp có thể là một hình thức những tên
gọi nhưng có chứa đựng một thực tại nào đó.
Bản
chất thứ nhất là bản chất tương thuộc; và chính ý tưởng của nó khuyến nghị rằng
các hiện tượng hay sự kiện hình thành sự hiện hữu như một kết quả từ những năng
lực của các nhân tố khác. Do vậy, bản chất
tương thuộc này không phải là sự sản sinh độc lập. Sự diễn giải của Tôn giả Vô Trước đề xuất rằng
chính hiện tượng quy nạp thiếu những đặc trưng tự xác định; nhưng bản chất
tương thuộc và bản chất trọn vẹn thật sự sở hữu một mức độ nào đó của những đặc
trưng tự xác định hay bản chất nội tại.
Sự diễn giải này của những kinh điển Bát nhã ba la mật đa, được minh họa
bởi Duy Thức tông, đưa hành giả hay tư tưởng gia đến những chiều sâu thẩm trong
sự phân tích của họ trong một sự thấu hiểu bản chất của thực tại và tại một điểm
nào đó của con người bắt đầu đánh mất tính cụ thể của thế giới ngoại tại. Do thế, Duy Thức học đi đến kết luận rằng thế
giới ngoại tại mà chúng ta nhận thức là một vọng tưởng và nó vắng bóng tính cụ
thể mà chúng ta hoạt hóa. Thế nên, thế
giới ngoại tại hay thế giới vật chất, cảnh giới vật lý, trong ý nghĩa căn bản,
không có gì hơn là sự nối dài tâm thức của chúng ta - một sự phóng chiếu, hoạt
hóa hay vọng tưởng - một cách thiết yếu đưa đến vị thế nơi mà tính cụ thể và thực
tại của nó bị phủ nhận. Nó trở nên rất
quan trọng cho trường phái ấy thấu hiểu vấn đề nhận thức thế giới ngoại tại
sinh khởi như thế nào. Nếu thế giới ngoại
tại mà chúng ta nhận thức chỉ là vọng tưởng, thì chúng ta bắt đầu nhận thức
tính cụ thế hay thực tế của thế giới ngoại tại như thế nào? Ở đây vấn đề trở nên thiết yếu cho trường
phái cung ứng một sự giải thích cho tiến trình này, và do thế, trong phạm vi
Duy Thức, chúng ta thấy nhiều thảo luận về chức năng và bản chất của tâm thức,
một cách đặc biệt trên việc các nhận thức sinh khởi như thế nào. Có những sự thảo luận về vấn đề nhận thức về
thế giới ngoại tại sinh khởi như một kết quả của sự kích hoạt của những dấu vết
khác nhau trên một loại thức đặc thù nào đó mà họ đặt tên như "thức nền tảng,"
hay a lại gia thức. Vì thế Duy Thức tông
không chi thảo luận về sáu loại thức - năm khả năng cảm giác cộng thêm với khả
năng tinh thần - mà cũng thảo luận thức nền tảng hay thức nền tảng chứa đựng, a
lại gia thức.
Căn
cứ trên đấy, thật là quan trọng cho trường phái ấy thấu hiểu tiến trình nhận thức
bắt đầu như thế nào và thức căn bản a lai gia là chỗ chứa nhiều dấu vết hay hạt
giống đã được tàng trử như một kết quả của những trải nghiệm nhận thức và cảm
xúc. Nó trở nên quan trọng để có một sự
giải thích về loại hạt giống gì đã bị lưu lại tàng thức. Duy thức tông liên hệ đến một loại hạt giống
đặc thù mà họ gán cho là dấu vết giống nhau.
Dấu vết này được nghĩ để giải thích những thí dụ liên tục về nhận thức của
sự phát sinh thế giới vật chất như thế nào.
Thí dụ, nếu chúng ta nhận thức về một đối tượng xanh dương, nhận thức ấy
có thể tiếp tục đến một điểm nào đấy vì thế các thí dụ minh họa của đối tượng
xanh dương ấy được nói là đang cho kết quả từ hành động của dấu vết ấy được chứa
trong tàng thức.
Duy
thức học phân ra những loại dấu vết khác nhau như những dấu vết cấu trúc của
ngôn ngữ và thói quen; và chính là trên căn bản này mà họ giải thích tại sao
khi chúng ta quán sát một đối tượng xanh dương chúng ta có nhận thức về màu
xanh; hay tại sao nhãn hiệu "xanh dương" có một mối quan hệ thực chất
bên trong với đối tượng; và loại nhận thức này được nói là sinh khởi như một kết
quả của những kinh nghiệm liên tục mà chúng ta đã sử dụng ngôn ngữ màu
xanh. Do thế, những dấu vết ngôn ngữ và
cấu trúc thói quen đưa đến kết quả trong loại nhận thức này.
Duy
thức học nói về loại dấu vết thứ ba được nói là hình thành bởi thói quen của việc chấp trước hay bám víu vào điều vì đó cụ thể. Đấy là bởi vì điều này mà khi chúng ta nhận
thức đối tượng màu xanh dương, không chỉ chúng ta nhận thức điều gì đó màu xanh
dương mà chúng ta cũng nhận thức mối liên hệ mật thiết giữa nhận thức của chúng
ta về màu xanh dương và đối tượng màu xanh dương mà chúng ta thấy. Chúng ta cảm thấy rằng có điều gì đó thật sự
khách quan mà đối tượng màu xanh dương chứng minh việc sử dụng thuật ngữ. Trong thực tế, ngôn ngữ, và thuật ngữ mà
chúng ta sử dụng để diễn tả đối tượng ấy, là trong ý nghĩa thanh thoát nào đấy;
đấy là một nhãn hiệu, một biểu tượng.
Nhưng điều này không phải là việc chúng ta cảm nhận thế nào khi chúng ta
đối diện với một đối tượng màu xanh dương, chúng ta có một cảm nhận theo bản
năng là nó thật sự màu xanh dương và điều gì đó thật sự khách quan nó thúc đẩy
chúng ta sử dụng ngôn ngữ màu xanh. Loại
nhận thức sai lầm này được nói là kết quả của những gì mà Duy thức học gọi là
những thói quen và những dấu vết hình thành bởi tập quán lâu đời của chúng ta
do sự chấp thủ và tính khách quan.
Do
vậy, trong thực tế, màu xanh dương ấy một
cách khách quan không có bất cứ lý do hay nền tảng nào cho việc biểu hiện sự
liên hệ cho thuật ngữ "xanh dương"; và mối quan hệ này giữa biểu tượng và hàm ý là ở trong một ý nghĩa tự nhiên nào
đó. Do vậy, Duy Thức gọi mối quan hệ ấy
là đơn thuần quy ước. Trên căn bản này họ
cho tranh luận rằng sự quy cho màu xanh ấy cho đối tượng ấy trống vắng thực tại
khách quan và bản chất. Nhưng điều này
không nói rằng sự quy cho là không tồn tại.
Sự tin tưởng rằng đối tượng màu xanh là thật sự khách quan và cũng trong
ý nghĩa căn bản nào đó là sự liên hệ chân thật với thuật ngữ 'màu xanh' và khái
niệm màu xanh đơn thuần là khả năng tưởng tượng. Chính sự tin tưởng này là sự tập trung then
chốt trong lập luận bác bẻ bởi trường phái Duy Thức. Do vậy, Duy Thức tranh luận là sự thật rằng chúng ta có nhận thức
sai lầm là rất hiển nhiên, bởi vì nếu ai đấy hỏi chúng ta đối tượng màu xanh là
thứ nào, chúng ta sẽ chỉ tới một vật thể màu xanh và nói, "Thứ màu xanh là
đấy". Điều này cho thấy rằng trong
sự thấu hiểu thông thường của chúng ta về thế giới, chúng ta không đối diện với
thế giới giống như thuật ngữ "xanh" hay khái niệm "màu
xanh" chỉ là một nhãn hiệu hay biểu tượng; đúng hơn, chúng ta hành động giống
như nó có một loại giá trị bản chất bên trong nào đấy, một mối liên hệ căn bản
giữa đối tượng và thuật ngữ hay nhãn hiệu.
Phương pháp về sự thấu hiểu này là một ảo giác hay vọng tưởng; và Duy Thức
tranh luận rằng sự chấp chặc với loại tin tưởng ấy là gốc rể của sự rối rắm của
chúng ta liên hệ đến bản chất của thực tại và tỉnh thức và tuệ giác, rằng đây
là một sự sai lầm, và rằng những thuật ngữ và nhãn hiệu này không liên hệ đến đối
tượng trong một ý nghĩa khách quan.
Phương pháp thấu hiểu này cấu thành tuệ giác chân thật đối với bản chất
cứu kinh của thực tại và chính trong những dạng thức này mà Duy Thức giải thích
và thấu hiểu giáo huấn Đại Thừa về tính không.
Do
vậy, chúng ta thấy trong kinh điển và luận giải Đại Thừa rằng những triết gia
Duy Thức hay Duy Tâm tiếp cận thế giới và phù hợp với thực tại trong những gì
được gọi là bốn khảo sát hay bốn hiểu biết hay danh từ chuyên môn là bốn vô ngại
giải[3]:
1-
Khảo sát về danh xưng hay thuật ngữ, việc tìm kiếm sự liên hệ chân thật - .Hiểu
biết tuyệt hảo về ngôn từ (Từ vô ngại giải).
2-
Khảo sát về ý nghĩa của các thuật ngữ và khái niệm - Hiểu biết tuyệt hảo về ý
nghĩa (Nghĩa vô ngại giải).
3-
Khảo sát về bản chất của các hiện tượng
- Hiểu biết tuyệt hảo về Pháp (Pháp vô ngại giải).
4-
Khảo sát về những đặc trưng tự tin của các hiện tượng - .Hiểu biết tuyệt hảo về
sự tự tin (Biện vô ngại giải).
Đấy
là qua thẩm tra khảo sát vào trong bốn chiều kích khác nhau này của các hiện tượng
mà Duy Thức Tông đạt đến sự thấu hiểu một quan điểm chân thật, là điều mà họ diễn
tả như chỉ có thức hay duy thức - duy tâm mà thôi.
Kết
luận, theo kinh điển Đại Thừa, khái niệm tánh không chứa đựng một khí cụ quan
trọng nhất - một theo Duy Thức tông và một theo Trung Quán tông. Hai quan niệm khác biệt này về tánh không được
xem như rất rất quan trọng và cũng rất phức tạp. Toàn bộ giáo huấn Kim Cương Thừa căn cứ trên
sự thấu hiểu về giáo thuyết tánh không và thật thiết yếu để có một kinh nghiệm
hay thấu hiểu nào đó về nó, hoặc theo Duy Thức hoặc theo Trung Quán tông. Dĩ nhiên, nếu chúng ta phân tích những quan
điểm khác biệt, chúng ta thấy rằng quan điểm Trung Quán được ưa thích hơn. Không có khái niệm tánh không, thật rất khó
khăn, và vô ích, để thực hành bổn tôn du già hay cố gắng để quán tưởng tự mình
như một bổn tôn. Do vậy, để thực hành
Kim Cương Thừa, chúng ta phải thực thành tâm bồ đề và có một thấu hiểu nào đó về
tánh không. Trên căn bản sự phối hợp của
chúng, bổn tôn rồi thì trở nên vô cùng năng lực và rất hiệu quả.
HỎI & ĐÁP
HỎI: Niết
bàn và sanh tử ở trong cùng một thể trạng là như thế nào?
ĐÁP: Ở đây, nếu chúng ta phát triển một sự thấu hiểu
sâu hơn về giáo huấn về phi thực thể hay vô tự tánh của mọi hiện tượng, thế thì
dĩ nhiên, chúng ta sẽ đi đến một sự thấu hiểu rằng không chỉ niết bàn và sanh tử
luân hồi, mà là ý tưởng rằng tất cả mọi hiện tượng đều có cùng bản chất như
nhau trong ý nghĩa cứu kính. Tất cả đều
phi thực thể; tất cả cùng trống rỗng thực tại căn bản, vô tự tánh. Do vậy, quan điểm này, dĩ nhiên, như Long Thọ
tuyên bố, nếu chúng ta thấu hiểu bản chất chân thật của luân hồi, chúng ta cũng
có tuệ giác chân thật trong niết bàn và ngược lại. Do vậy, chúng ta không được áp đặt sự hiểu biết
sai lầm trong lời tuyên bố của Long Thọ, nghĩ rằng trong thực tế Long Thọ có thể
đang nói rằng cõi luân hồi sanh tử này - tình trạng bất giác mà chúng ta đang sống
- trong thực tế là cùng giống như niết
bàn, thể trạng giác ngộ.
HỎI: Làm sao chúng ta biết là có một linh hồn và
con người tái sinh tùy thuộc vào nghiệp báo?
ĐÁP: Theo quan điểm của Đạo Phật, thuyết tái sanh
không được giải thích trong dạng thức của khái niệm nghiệp báo. Thuyết tái sanh nên được thấu hiểu trên căn bản
sự thấu hiểu của chúng ta về bản chất của nhân quả, do vì theo Đạo Phật mỗi sự
kiện phải có những nguyên nhân và điều kiện trước. Do thế, ngay cả một nhận thức đơn độc - hãy
nói là, một ý niệm hay tâm thức tức thời - phải có những nguyên nhân và điều kiện;
và vì thế qua tiến trình này chúng ta có thể truy tầm sự tương tục không có khởi
đầu của tâm thức. Và một khi chúng ta có
thể phát triển loại thấu hiểu ấy về tiến trình nhân quả, thế thì thuyết tái
sanh phát triển một cách tự nhiên trên căn bản của sự thấu hiểu về nhân quả.
Bây giờ, chỗ nào mà nghiệp báo phù hợp trong mối
quan hệ đến thuyết tái sanh? Nó quyết định
loại tái sanh mà một cá nhân có thể có.
Nghiệp báo tốt lành đưa đến kết quả của một loại tái sanh thuận lợi, và
nghiệp báo xấu ác đưa đến kết quả một sự tái sanh bất lợi. Dĩ nhiên, chúng ta phải thấu hiểu rằng khi
chúng ta đang nói về nghiệp báo là chúng ta đang nói về một trường hợp cá biệt
của tiến trình nhân quả, nghiệp báo là một phần của tiến trình ấy. Khi chúng ta nói về nghiệp báo, chúng ta đang
liên hệ không chỉ một sự kiện mà đúng hơn là một sự kiện liên hệ với một tác
nhân, một người thực hiện, một hành vi.
Nghiệp là một hành vi được tiến hành bởi một tác nhân, một con người với
động cơ, và nó quyết định mục tiêu của tiến trình ấy.
HỎI: Sau khi
tranh luận với người nào đó, làm thế nào ngài vượt thắng cảm giác rằng ngài đúng
và người kia sai. Làm thế nào ngài chiến
thắng cảm nhận không tốt với người kia khi người ấy đã làm hại một cách hiểm độc với ngài?
ĐÁP: Đối với phần
hai của câu hỏi, tôi đề nghị bạn nên đọc chương Nhẫn Nhục và Bao Dung trong tác
phẩm Hướng Dẫn Lối Sống Bồ Tát của Tịch Thiên.
Tuy
nhiên, tôi muốn chỉ ra rằng khi nói về trau dồi nhẫn nhục và bao dung đối phó với
ai đấy làm tổn hại chúng ta một cách vô lý, chúng ta không nói về việc chịu
thua đối với những hành động sai lầm đối với chúng ta, cũng không nói về việc
tán thành các hành động của người khác.
Thật quan trọng để thấu hiểu rằng nhẫn nhục không có nghĩa đơn thuần là
nhượng bộ hay tính dễ bảo; nhẫn nhục là một lập trường cẩn trọng chúng ta làm
theo trên căn bản mà chúng ta giải quyết một cách thận trọng không phải trả đủa
chống lại sự tổn hại đã bị người khác làm.
Đấy là một tình trạng năng động hơn là một tình trạng nhu mì, và trong một
số trường hợp cá biệt, những hành vi nào đó và những việc làm sai trái của người
khác có thể đòi hỏi những biện pháp đối phó.
Nhưng những biện pháp này có thể được chấp nhận và thực hiện trên căn bản
của nhẫn nhục và bao dung. Một khi chúng
ta bắt đầu nhận ra sự đa dạng của các khái niệm và nhận thức cũng như sự phức tạp
của các vấn đề, thế thì không cần thiết phải liên hệ đến lập trường suy nghĩ của
chúng ta rằng đấy là chân lý.
Dĩ
nhiên, có thể có những trường hợp nơi mà hai bên có những vị thế và quan điểm đối
kháng hoàn toàn. Thí dụ, cuộc tranh luận
triết lý giữa trường phái Duy Thức và Trung Quán trong dạng thức diễn giải bản
chất tối hậu của các hiện tượng (vạn pháp).
Vấn đề là tất cả mọi hiện tượng là trống rỗng thực chất nội tại hay một
số hiện tượng có sở hữu thực chất nội tại.
Dĩ nhiên, ở đây, Duy Thức có một quan điểm và Trung Quán có một quan điểm
khác, và trong một ý nghĩa nào đó, hai quan điểm này là đối kháng hoàn toàn. Trong những trường hợp như vậy, chúng ta có
thể nhìn vào cuộc tranh luận từ nhận thức mục tiêu mà hai quan điểm khác biệt
phục vụ: vấn đề một quan điểm phục vụ thiên hướng triết lý của những người nào
đó, và thứ kia phục vụ thiên hướng triết lý cũng như sự khảo sát hay hiểu biết
của những người khác. Thế thì sự kiện là
họ có những mục tiêu khác nhau, và sự đánh giá này về mục tiêu đa dạng, có thể
giảm thiểu sự liên hệ với vị thế của chúng ta.
HỎI: Làm thế
nào chúng ta cân bằng việc bảo vệ môi trường với nhu cầu của con người, chẳng hạn
như việc tàn phá rừng đã làm ra sự chết chóc của nhiều sinh vật nhưng không làm
liên lụy đến sự chết chóc của con người?
ĐÁP: Xung đột và mâu thuẩn là ở trong một ý nghĩa
nào đó đã làm nên loài người chúng ta.
Trên trình độ thực tiển đây là một vấn đề phức tạp. Ở Ấn Độ, thí dụ thế, tình trạng kinh tế là rất
nghèo và rất khó khăn, một cách đặc biệt trong những vùng xa xôi và trong dãy
Hy Mã Lạp Sơn, nơi mà con người tùy thuộc rất nhiều vào rừng rậm cho sinh kế của
họ. Do vậy, ngoại trừ chúng ta chỉ cho họ
một sự lựa chọn, thật khó khăn để dừng lại những thứ này. Chúng ta phải thực hiện một tiến trình trong
một quan điểm rộng rãi hơn bởi vì quá nhiều thứ liên hệ hổ tương với nhau. Thí dụ, kế hoạch hóa gia đình cũng rất quan trọng, vì thế tôi
nghĩ một sự tiếp cận thánh thiện là cần thiết.
HỎI: Tôi muốn
biết Đại Thừa và Tiểu Thừa giúp một học nhân như thế nào?
ĐÁP: Đối với một học
nhân Đạo Phật, thật cần thiết để học hỏi những giáo huấn này và thi hành chúng
từng bước một. Truyền thống Tây Tạng thực
tập một cách rõ ràng điều này như chúng tôi cùng học tập và thi hành giáo huấn. Mặc dù một số người có thể không thi hành
ngay lập tức, nhưng chương trình toàn thể phải được làm ra một cách rõ ràng: điều
này thực tập hôm nay, điều này thực tập sau này, và v.v..., vì thế chúng tôi có
chương trình hoàn toàn đầy đủ trong tâm.
HỎI: Trong
xã hội của tôi, tôi cho rằng tôi đo lường sự thành công của tôi trong dạng thức
vật chất. Thay vì thế nếu tôi đo lường sự
thành công của tôi trong dạng thức của từ bi và hòa bình nội tại, tôi chắc là bị
xem như một kẻ ngu ngơ. Tôi có thể tìm
thấy sự kiên nhẫn và tự giác để chiến thắng sự chán nản và nghi ngờ mà vấn đề
này tạo ra như thế nào?
ĐÁP: Xã hội thật sự
có thói quen phán xét sự thành công của con người trong dạng thức của sự thành
công vật chất, nhưng tôi muốn chỉ ra ở đây rằng chỉ bởi vì một nhận thức quy ước
như thế hiện hữu, nhưng không có nghĩa là nó có giá trị, bởi vì chúng ta biết từ
kinh nghiệm cá nhân của chúng ta rằng tại thời điểm này của lịch sử, chúng ta,
những thành viên của thế hệ này, đang bị đau khổ bởi những hậu quả tiêu cực của
nhiều thứ được gọi là trí tuệ quy ước của những thế hệ quá khứ.
Mới
đây, tôi thật sung sướng tham gia một hội nghị quan trọng ở Hoa Kỳ, tập trung
trong việc đối phó và vượt thắng những rắc rối đa dạng của xã hội, một cách đặc
biệt là một xã hội giàu có chạm trán với ngày nay. Những tham dự viên của hội nghị này từ những
tổ chức xã hội khác nhau trong lãnh vực chăm sóc sức khỏe và phúc lợi xã hội. Những tham dự viên đồng lòng rằng một trong
những nguyên nhân chính yếu của những rắc rối xã hội này là sự thiếu vắng hay
lượng từ bi và cảm nhận ân cần không tương xứng trong cộng đồng. Do vậy, tôi tin tưởng một cách chắc chắn rằng
như một kết quả của tất cả những kinh nghiệm và tuệ giác gặt hái được bởi những
con người từ những tầng lớp khác nhau của xã hội, sẽ dần dần trở nên rõ ràng
hơn trong chúng ta rằng thật là quan yếu để bồi bổ cho một sự đánh giá đúng đắn
về những giá trị của nhiều phẩm chất nội tại của con người trong xã hội.
HỎI: Điều gì
làm cho Đức Thánh Thiện hạnh phúc nhất?
ĐÁP:
Chú
ý không chỉ việc trau dồi kiến thức mà tu dưỡng những phẩm chất của trái tim,
vì thế vào lúc kết thúc việc giáo dục, không chỉ chúng ta sẽ trở thành thông thạo,
mà chúng ta cũng sẽ là một người nhiệt tình và từ bi.
Nguyên
tác: Path for Spiritual Practice trích từ quyển Live in a Better Way
Ẩn
Tâm Lộ ngày 5/9/2012
No comments:
Post a Comment