ĐỜI SỐNG VÀ SỰ THỰC HÀNH HẰNG NGÀY
CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ PHƯƠNG TÂY
Nguyên tác: Daily Life and Practice
of Western Buddhists
Riga,
Latvia, July 2008
Tác giả: Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
-o0o-
http://www.thubtenchodron.org/BuddhistNunsMonasticLife/images/SanghaConf04.jpg
MỤC LỤC
1. Có những khó
khăn đặc thù cho sự thực hành của người Phật tử ở xã hội phương Tây hiện
đại hay không?
2. Phật giáo thời trang
3. Sống một đời sống tu sĩ trong
thế giới trần gian
4. Sự chuyển hóa
cá nhân
5. Sự cúng dường
và chí nguyện
6. Hãy thành thật và thực tế với
chính chúng ta về chí nguyện thực hành Giáp Pháp
7. Làm cho Phật giáo trở thành một
lối sống
8. Làm thế nào biến Phật giáo
thành một lối sống?
9. Buổi thiền tập
10.
Để
chiến thắng cho những người khác
11.
Có phải
làm cho những giáo huấn thuận tiện một cách dễ dàng là làm hỏng mục tiêu?
12.
Thông
hiểu tính bản nhiên của tâm thức, giải thoát, và giác ngộ
13.
Lựa
chọn một vị đạo sự tâm linh
1- CÓ NHỮNG KHÓ KHĂN ĐẶC THÙ CHO
SỰ THỰC HÀNH CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ Ở XÃ HỘI TÂY PHƯƠNG HIỆN ĐẠI HAY KHÔNG?
Chúng
tôi đã từng được yêu cầu để thuyết trình về đề tài này: cuộc sống hàng
ngày và sự thực hành của Phật giáo ở phương Tây. Chúng tôi nghĩ về câu
hỏi đầu tiên nẩy lên là, có bất cứ sự đặc biệt nào về sự thực hành Phật giáo ở
phương Tây khác biệt với sự thực hành Phật giáo ở bất cứ không gian, bất cứ
thời gian nào trong lịch sử hay không? Có bất cứ điều đặc biệt nào về
chúng ta hay không? Và, tại sao chúng ta quan tâm để biết có điều gì đấy
đặc biệt về chúng ta, ở phương Tây, bây giờ hay không? Đấy sẽ là … những
lý do đặc biệt nhất … mà chúng ta đối diện với những khó khăn đa dạng; và chúng
ta muốn biết có một vài khó khăn phụ trội mà chúng ta đối diện và chúng ta cần
phải hành động để vượt thắng hay không? Hay, cho một lý do kém quan trọng
hơn nhiều, nó có thể là bởi vì chúng ta đang tìm cho một sự bảo chửa để không
phải thực hành cần mẫn hay tập trung sâu sắc như những người khác ở những nơi
khác của thế giới cùng thời gian. Nói cách khác, chúng ta đang tìm kiếm
một sự mặc cả. Để giác ngộ mà ít tốn công [rẻ tiển].
Thế thì, hãy để loại động cơ kiểu ấy qua một bên, và nhìn một cách nghiêm chỉnh
hơn tại [câu hỏi], có bất cứ những sự khó khăn đặc thù nào mà chúng ta đối diện
hay không?
Bây
giờ, nếu chúng ta nhìn vào những vấn đề căn bản nhất, những vấn đề liên hệ
trong con đường của Phật giáo, và những gì chúng ta phải làm, chúng tôi
nghĩ chúng ta phải nói rằng hoàn toàn không có bất cứ điều gì đặc biệt về chúng
ta. Chúng tôi nghĩ rằng chúng ta có thể nói về điều ấy bây giờ, ở phương
Tây, trong thời gian hiện tại này, chúng ta có nhiều giận hờn hơn, tham đắm
hơn, hay vị kỷ hơn những người ở những nơi khác trên giới có, hay những người
đã từng có trong quá khứ. Người ta đang hành động với cùng những
cảm xúc quấy rầy, khắp trong vũ trụ này, suốt khắp mọi thời. Vì thế không
có điều gì đặc biệt bây giờ, có phải thế không? Và, con số của những
chúng sinh đã không tăng lên. Thế nên, suốt mọi thời gian và khắp mọi
nơi, tất cả chúng ta đã từng đối diện… mọi người đã phải đối diện với những thử
thách không thể tin được về mong mõi để đạt đến giác ngộ hầu làm lợi ích cho
rất nhiều người. Rất nhiều người, tôi nói thế. Vì thế điều ấy là
giống nhau.
Thế
nên, chúng ta đã từng nói… nếu chúng ta nghĩ trong hình thức của con đường tiệm
tiến … của lam-rim, giai đoạn thứ hai, mục tiêu bậc vừa, khuynh hướng để giải
thoát khỏi những cảm xúc phiền não. Giống thế, bây giờ như nó đã từng
trong quá khứ, hay bất cứ nơi nào. Hành động cho giác ngộ để hổ trợ mọi
người. Giống nhau. Giống nhau về con số của những chúng sinh như
luôn luôn đã có như thế. Và nếu nói về giai đoạn khởi đầu, mục tiêu bậc
tiểu, là để cải thiện những đời sống tương lai, bào đảm rằng chúng ta tiếp tục
có một sự tái sinh trong đời sống quý báu của con người. Ô, điều ấy đã
không thay đổi gì cả, phải thế không? Tất cả chúng ta có căn nguyên của
sự ‘liên tục tinh thần’[1]. Điều này có nghĩa rằng chúng ta đã từng sinh
ra trong những phần khác của thế giới, trong những phần khác của vũ trụ, trong
tất cả những đời sống trước, và chúng ta luôn luôn đối diện với tương lai tái
sinh, và cần phải cố gắng để bảo đảm rằng chúng ta có một đời sống quý báu của
con người. Thế thì, điều ấy là giống nhau. Do vậy, điều gì là khác
nhau? Có bất cứ điều gì khác nhau không?
Ồ, một
số người có thể nói rằng những hoàn cảnh của chúng ta là khác nhau. Thí
dụ, chúng ta có những đời sống rất căng thẳng, chúng ta rất bận rộn. Ồ,
có một một người nông dân vật vả trong thời đại Trung cổ, người ấy phải làm
việc trên những cánh đồng, mười sáu giờ hay hơn thế trong một ngày, có phải họ
đã từng ít bận rộn hơn chúng ta, làm việc trong một văn phòng? Hành
vi của họ có thể là khác biệt, nhưng họ chắc chắn là bận rộn. Và những
người sống trong hang động. Có phải họ đã không có hàng khối căng thẳng
và lo lắng, về những thú vật hoang dã, và những thứ như thế này. Nhiều sự
sợ hãi. Sợ hãi về những tia chớp hay sấm sét – những thứ mà họ không hiểu
biết? Con người luôn luôn sống với sự sợ hãi và căng thẳng, có phải thế
không ?
Đời
sống ra sao trong những thời kỳ của dịch hạch. Chúng ta nghĩ rằng chúng
ta có căng thẳng và sợ hãi bây giờ. Sẽ ra sao nếu chúng ta đã sống trong
những thời kỳ ấy? Vậy thì, chúng tôi không nghĩ rằng chúng ta có thể nói
là có điều gì quá đặc biệt về chúng ta, rằng đời sống chúng ta là quá bận rộn và
căng thẳng. Có thể là một mùi vị khác của bận rộn, một mùi vị khác của
căng thẳng, trong hình thức của những hành vi mà chúng ta liên hệ
với chúng. Nhưng căng thẳng, lo lắng, không có thời gian?
Chúng diễn tiến khắp mọi thời, khắp mọi nơi.
Ồ,
chúng ta cũng có thể nói rằng xã hội của chúng ta, văn hóa của chúng ta, không
chia sẻ bất cứ điều gì, hay nhiều thứ, về những điều chúng ta thừa nhận ở nền
tảng mà quý vị có trong Phật giáo. Thế thì nó thật sự rất trái ngược với
chúng ta. Nhưng, nếu chúng ta nhìn lại kiểu mẫu Phật giáo đến Trung Hoa,
người Trung quốc không tin ở tái sinh. Người Trung quốc luôn luôn nghĩ
trong hình thức của tổ tiên. Và khi bạn chết đi, có một loại tâm linh nào
đó, hay một linh hồn, của tổ tiên sống trong ấy. Và bạn phải dâng cúng
đến tổ tiên. Điều ấy hoàn toàn khác biệt với tái sinh, có phải
không? Nếu quý vị nghĩ về tái sinh, tổ tiên không còn đâu đấy chung
quanh… những tâm linh của tổ tiên. .. có phải không? Và thế thì, phải cần
một thời gian dài để người Trung quốc thấu hiểu hàng khối những khái niệm căn
bản, rất nền tảng của Phật giáo. Do vậy, khi chúng ta đối diện với
sự thử thách tương tự, điều ấy không có gì mới. Không có gì đặc biệt.
Thế
nên, chúng tôi nghĩ rằng nhận ra điều ấy, chúng ta không “đặc biệt,” có thể rất
hữu ích. Nếu quý vị nghĩ về những người trẻ tuổi từ mười một đến mười
chín và thậm chí không cần thiết trong độ tuổi ấy, nhưng những con người có một
loại vấn đề nào đấy. Hãy nói như, cha mẹ chúng nghiện rượu hay bất cứ
điều gì. Chúng thường nghĩ, “Tôi là người duy nhất có vấn đề này.”
Và rồi thì vấn đề trở nên thật sự rất, rất lớn đối với chúng. Nhưng nếu
chúng học thấy rằng có rất nhiều, rất nhiều những người khác, cũng đối diện với
cùng loại vấn nạn ấy, thế thì chúng không đơn độc; chúng không cảm thấy cô đơn.
Vấn đề của chúng phù hợp trong một phạm vi rộng rãi hơn. Chúng tiếp nhận
một quan điểm rất khác biệt về vấn đề ấy. Và một cách tốt nhất, chúng sẽ
phát triển từ bi cho mọi người khác với cùng vấn đề tương tự. Đúng hơn là
suy nghĩ về nó một cách đơn giản như vấn đề “của tôi,” bây giờ chúng sẽ bắt đầu
nghĩ về nó như vấn đề “của chúng tôi.” Khi điều gì ấy trở thành vấn đề
“của chúng ta,” hơn là vấn đề “của tôi,” cảm nhận và tâm lý rất là khác
nhau. Do vậy, chúng tôi nghĩ nó cũng giống như thế, trong hình thức thực
tập hằng ngày của Phật giáo. Nó thật sự là vấn đề của mọi người.
Chúng ta áp dụng Phật giáo trong đời sống như thế nào? Đấy không là vấn
đề đặc biệt “của tôi,” “tôi” một cách cá nhân, hay “tôi” một cách văn hóa cá
nhân sống ở phương Tây, bây giờ, trong thời kỳ hiện tại của chúng ta. Chỉ
là những điều kiện khác nhau – từ một quan điểm. Những chi tiết là khác
nhau, chúng tôi nói thế.
2- PHẬT GIÁO THỜI TRANG
Bây
giờ, có nhiều cấp độ khác nhau về thực tập Đạo Phật và làm thế nào chúng ta tiến
hành áp dụng nó trong đời sống hằng ngày. Có một mức độ rất rất là hời
hợt mà điều ấy thật sự chẳng thể tác dụng gì nhiều để tạo nên sự thay đổi trong
tâm thức chúng ta. Và, rồi thì có một mức độ sâu hơn, mà trong ấy chúng
ta thật sự đang hành động trên chính chúng ta, hành động một cách cá nhân, hành
động trên mục tiêu của giải thoát và giác ngộ. Bây giờ, lúc bắt đầu,
nhiều người bị lôi cuốn với mức độ nông cạn và thế là họ chỉ nghĩ đến những
việc bên ngoài. Bằng những thứ bên ngoài chúng tôi muốn nói ý nghĩa rằng
quý vị phải có một dây phù hộ màu đỏ ở trên cổ, hay ở cổ tay, hay cả hai, có lẻ
khi chúng ta đang đi nhiễu chung quanh hay ngồi, rồi thì quý vị lần tràng hạt
và lẩm bẩm điều gì đấy. Và chúng ta có một nguồn cung cấp tốt về hương và
nến, và tất cả những tọa cụ cùng gối ngồi thiền thích hợp, và những họa phẩm
hay hình ảnh Tây Tạng, và, nếu chúng ta thật sự đi sâu trong chiều hướng này,
chúng ta có thể bắt đầu để ăn mặc một loại áo quần Tây Tạng nào đấy.
Chúng
tôi nhớ lại khi lần đầu tiên đến Ấn Độ năm 1967, khi chúng tôi bắt đầu sống ở
đấy. Đấy là thời kỳ cao trào của phong trào hippy và có rất ít người Tây
phương sống ở đấy vào lúc ấy. Nhưng nhiều người trong họ ăn vận hoàn toàn
trong những trang phục lạ mắt của Tây Tạng, và những thứ như thế. Và
chúng tôi đúng hơn là phê phán về toàn bộ vấn đề và nghĩ điều ấy làm chướng tai
gai mắt người Tây Tạng; rằng những người Tây phương này chỉ bắt chước và làm
theo họ. Vào lúc ấy, Chúng tôi đang sống với một tu sĩ Tây Tạng.
Thế là chúng tôi hỏi ông, “Người Tây Tạng nghĩ gì về những người phương Tây
này, rảo chung quanh ăn mặc trong những trang phục Tây Tạng? Và ông nói, “Chúng
tôi nghĩ rằng họ thích áo quần Tây Tạng.” Thế nên, không có phê bình chỉ
trích ở đấy, về bất cứ điều gì. Điều ấy rất, rất là hữu ích.
Nhưng,
cho dù chúng ta phê phán về điều ấy hay không, chỉ thay đổi áo quần của chúng
ta, đeo tràng hạt chung quanh cổ tay, có nhiều giải gia hộ, dây đỏ chung quanh
cổ, không thực sự thay đổi chúng ta nhiều, có phải không? Trong thâm
tâm? Do thế, chúng tôi nghĩ rằng, một cách đặc biệt ở phương Tây,
nó không phải là một ý tưởng lớn để quanh quẩn với những điều này bởi vì nó sẽ
chỉ mang đến việc người ta làm trò đùa với chúng ta. Nếu một người đàn bà
ăn mặc trong một trang phục xinh đẹp, sang trọng cho một buổi dạ tiệc và họ có
những dây nhớp nhúa đo đỏ nào đấy ở trên cổ, điều ấy nhìn không thích đáng lắm,
có phải không? Thế nên, chúng tôi thường khuyên mọi người rằng nếu họ
muốn giữ những giải phù hộ đo đỏ ấy, hãy để nó bên trong ví hay xách tay, trong
túi, trong quyển sách tay của họ, hay bất cứ món gì. Quý vị không phải
thật sự phô bày những vật ấy. Phô trương những điều ấy không đem đến thêm
“sự gia hộ,” có phải không” Và, nếu quý vị muốn trì tụng chân ngôn, đà la
ni, thần chú, mantra, cũng giống như thế; các bạn không phải đem tràng hạt, xâu
chuổi ra và làm một màn trình diễn ồn ào bên ngoài [cầu nguyện cho mọi người
thấy như thế.] Quý vị có thể mật niệm một cách tĩnh lặng trong tâm thức
quý vị, nếu bạn ở trong một đám đông, hay trên một chiếc xe buýt, hay bất cứ
nơi nào. Do vậy, đây là ý nghĩa của điều chúng tôi muốn nói về một cảnh
tượng thay đổi một cách nhẹ nhàng mà chúng ta có. Nếu chúng ta ở trong
một xã hội với những thái độ kiểu như thế, hay loại dây đo đỏ như thế, nó sẽ
trông rất là lạ lùng, thế thì không cần phải có chúng – một cách phô trương bên
ngoài. Và, nếu sự thực hành Phật giáo của chúng ta chỉ đơn giản là đeo
mang những thứ dây nhợ như thế, thế thì rõ ràng nó không là một sự thực
tập sâu sắc, và không có nhiều lợi ích.
Thực
sự, nếu quý vị nhìn vào cung cách mà người Tây Tạng đối với những giải [phù hộ]
ấy, họ chỉ đeo những giải ấy một thời gian ngắn. Họ không mang cho đến
khi chúng trông nhớp nhúa và dễ sợ. Họ đeo những thứ ấy trong một thời
gian ngắn nào đấy và rồi thì cất chúng đi; đặt chúng trên bàn thờ hay tương tự
như thế. Do vậy, chúng tôi nghĩ lời khuyên mà chúng ta có trong bảy điểm
của thái đội rèn luyện [2], hay tu tâm, lojong, là rất hữu ích ở đây. Đấy
là, “Chuyển hóa một cách nội tại, nhưng hãy để hình thức bên ngoài của quý vị
thích hợp với những gì bình thường với chung quanh.” Thế nên, tốt nhất
là hãy giữ sự thực tập của chúng ta một cách cá nhân. Điều này đặc
biệt đúng nếu chúng ta là những hành giả cư sĩ sống trong một xã hội không phải
Phật giáo.
3- SỐNG MỘT ĐỜI SỐNG TU SĨ TRONG
THẾ GIỚI TRẦN GIAN
Bây
giờ, nếu chúng ta là những tu sĩ nam hay nữ, điều ấy thì có đôi chút khác
biệt. Điều ấy trở thành một vấn đề lớn. Làm thế nào chúng ta thực
hành như một người phương Tây, sống trong xã hội Tây phương, như một tu sĩ nam
hay nữ? Chúng ta mang y để làm việc chứ? À, đấy không là một
vấn đề dễ dàng. Một cách đặc biệt bởi vì chưa bao giờ có khuynh hướng về
việc tu sĩ Phật giáo (tăng hay ni) đi làm việc trong một ảnh hưởng việc làm
phàm tục. Toàn bộ vấn đề trở thành một vị tu sĩ (nam hay nữ) là để sống
trong một tu viện với những tu sĩ khác. Và, nếu quý vị làm một sự ẩn tu,
quý vị ra khỏi …tu viện của quý vị… đến một hang động, hay bất cứ gì và rồi trở
lại tu viện tu viện của quý vị. Thế nên, luôn luôn ở trong sự liên hệ với
toàn bộ cộng đồng với những người khác, những người thường ăn mặc và liên hệ
trong cùng một hình thức hành hoạt. Do vậy, điều này trở thành một vấn đề
quan trọng. Làm thế nào trở thành một vị tu sĩ (nữ hay nam) ở phương
Tây? Và làm thế nào chúng ta thực hành, nếu chúng ta không có những tu
viện phương Tây – hay chúng ta có quá ít tu viện phương Tây?
À,
chúng ta hãy nhìn những thí dụ trong lịch sử. Những người Mông Cổ tiếp
nhận Phật giáo Tây Tạng và trước khi những tu viện được thành lập và hổ trợ một
cách tốt đẹp ở Mông Cổ, nếu bạn muốn trở thành một tu sĩ (nữ hay nam) và thực
hành một cách nghiêm chỉnh, bạn sang Tây Tạng và học tập ở đấy trong tu
viện. Thế nên, như những người phương Tây chúng ta không có gì khác biệt;
không có gì đặc biệt. Người Mông Cổ không biết tiếng Tây Tạng. Nó
là một ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ. Họ phải học. Và chúng ta cũng
vậy. Không dễ dàng cho họ đến Tây Tạng – họ phải đi bộ! Chúng ta
tối thiểu không phải đi bộ đến Nepal hay Ấn Độ. Và họ đối diện nhiều khó
khăn; chúng ta cũng sẽ cần phải đối mặt với những khó khăn. Chúng ta sẽ
không tiếp nhận nó hời hợt không thành thật. Và, điều quan trọng là cố
gắng thành lập những ni viện và tăng viện ở phương Tây.
Rồi thì
chúng ta có thể nói, thí dụ, “À, nhưng chúng ta không có truyền thống khất
thực.” Nếu chúng ta đi chân không chung quanh thành phố của chúng ta với
một bình bát và… khi quý vị khất thực như một vị tăng hay ni, bạn thậm
chí không được yêu cầu bất cứ thứ gi; bạn chỉ bước đi và mọi người đáng lý phải
biết để cúng dường thực phẩm cho bạn và v.v… và chúng ta chắc là phải rất đói
bụng. Người Tây Tạng không đi khất thực chung quanh với bình bát của
họ. Những khoảng cách rất xa để vào phố thị ở Tây Tạng. Nhưng cộng
đồng phát triển trong một cung cách mà mọi người đem thực phẩm tới tu viện.
Vì thế rất tốt đẹp. Và chính quyền hổ trợ những tu viện. Thế
nên, được họ ban cho đất đai và họ tiếp nhận … có nhiều người làm việc trên
những cánh đồng và họ đóng một phần nào đấy cho tu viện. Do vậy, hệ thống
chuyển động. Nhưng điều ấy phải có một thời gian dài để tiến triển.
Nhưng người Trung Hoa không có truyền thống khất thực và tu sĩ nam nữ ở Trung
Hoa không khất thực. Họ thay đổi truyền thống một cách nhẹ nhàng, vì thể
tu sĩ nam nữ thật sự làm việc tại tu viện. Và họ có những cánh đồng và họ
trồng trọt nông phẩm cho chính họ. Thế nên, ở phương Tây chúng ta chắc chắn sẽ làm
tương tự như thế trong tăng viện và ni viện, nhầm mục tiêu thực tập Phật giáo
và hổ trợ chính mình, họ chắc chắn sẽ phải có liên hệ với một loại hình làm
việc nào đấy.
Nếu
chúng ta nhìn vào Ấn Độ, nhiều thứ đã phát triển một ít trong chiều hướng
này. Trong tu viện…ở nam Ấn… họ được chính quyền Ấn Độ ban cho đất
đai. Vào lúc ban đầu, tăng sĩ trồng trọt. Mọi người phải làm việc
trên những cánh đồng. Và nếu họ có thể tiếp nhận sự hổ trợ… hoặc là từ
gia đình hay từ những người bảo trợ ngoại quốc hay bất cứ điều gì.. thế thì họ
có thể mướn những người địa phương làm việc trên đồng cho họ. Vì vậy,
điểm này là nếu chúng ta sẽ trở thành một vị tăng hay ni, thế thì chúng tôi
nghĩ điều quan trọng là cố gắng hoạt động trong khuôn khổ của một vị tu sĩ nữ
hay nam. Bằng cách nào đấy, chúng ta sẽ có là sự tự hổ trợ và vạn tiếp
tục mặc y áo tu sĩ. Áo quần tu sĩ có ý nghĩa rất quan trọng.
Tôi nhớ
tiến sĩ Phật học (Geshe) Wangyal. Ông là một người Mông Cổ Kalmyk, vị
giáo thọ đầu tiên mà chúng tôi gặp. Ông sống ở Hoa Kỳ và ông không quá
tha thiết trong việc có những học trò phương Tây của ông trở thành một vị tăng
hay ni. Nhưng, nếu bạn thật muốn trở thành một vị tu sĩ, điều mà ông ta
muốn bạn làm là mặc y áo tu sĩ tăng ni bên cạnh quầy tính tiền trong một siêu
thị với bình bát khất thực. Ông nói, “Nếu bạn sắp trở thành một vị tăng
hay ni ở đây, bạn phải làm gì. Bạn sẽ không tiếp nhận nó một cách hời hợt
không thành thật…” [hãy thực hành] trong hình thức đã bị hầu hết mọi truyền
thống quên lãng .
4- SỰ CHUYỂN HÓA CÁ NHÂN
Nhưng
chúng tôi nghĩ rằng những gì mà buổi thảo luận nào đưa đến là sự kiện rằng sự
thực hành Phật Pháp trong xã hội phương Tây đòi hỏi tiếp nhận những giáo lý
được truyền dạy. Và tiếp nhận giáo huấn ở phương Tây đòi hỏi tiền
bạc. Điều này, chúng tôi nghĩ, là một trong những điểm khó khăn và một
trong những điểm đặc biệt sòng phẳng trong lịch sử Phật giáo. Một cách
thông thường, bạn không phải trả tiền để tiếp nhận giáo huấn. Bạn có thể
cúng dường , nhưng nó không đòi hỏi rằng bạn phải trả ngay tại cửa để bước vào.
Thế
thì, sự thực hành Phật Pháp đòi hỏi gì? Điều nó đòi hỏi… chúng ta không
nói về tiền bạc, không phải nó đòi hỏi tiền bạc… nếu chúng ta nói về một sự
thực hành Phật Pháp thật sự, sự thực hành Phật Pháp thật sự đỏi hỏi sự hành động
của chính mình. Chuyển hóa chính mình. Sự thực hành chuyển hóa
chính mình không phải điều gì đấy được hoàn tất qua những nghi lễ. Chúng
ta có thể học hỏi làm thế nào thực hiện một nghi thức và trì niệm bù lu bù loa
trong một ngôn ngữ ngoại quốc mà chúng ta không hiểu mô tê gì cả. Và học
hỏi khi chúng ta phát âm những mẫu tự này, bạn rung chuông, và bạn đọc lên
những âm ấy, bạn lắc trống, và cuối cùng, gì nữa? Nó không chuyển hóa
chúng ta gì cả. Chúng ta vẫn sân hận. Và chúng ta vẫn không thể hòa
hiệp với cha mẹ chúng ta, và v.v…Thế nên, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng sự thực
hành những nghi thức này khi chúng ta không có một sự hiểu biết về những gì
chúng ta đang làm thật sự sẽ không đưa chúng ta xa lắm. Điều đó không
thật sự lợi ích gì nhiều.
Sự thực
hành Phật Pháp là … nó nói rất rõ ràng cả trong Long Thọ, Thánh Thiên, tất cả
những đại đạo sư Ấn Độ nói…tất cả truyền qua sự thuần hóa tâm thức chúng
ta. Và thuần hóa tâm thức bạn có nghĩa là, trước nhất là, học hỏi những
giáo huấn. Học hỏi những phương pháp về việc làm thế nào đê đối phó với
những cảm xúc phiền não những hoàn cảnh rắc rối. Và phân tích những tình
cảnh đa dạng mà chúng ta gặp phải. Cố gắng duy trì sự tỉnh giác, có nghĩa
là nhớ lại những giáo huấn và áp dụng chúng trong những hoàn cảnh khác nhau, vì
thế nó có thể giúp chúng ta chiến thắng ít nhất những vấn nạn thông thường mà
chúng ta có trong đời sống – như sân hận, như lo lắng, như sợ hãi, như không
hòa hiệp với cha mẹ chúng ta – những thứ loại này. Đối diện với chán
chường, đối phó với bệnh tật, đối diện với tuổi già, những vấn nạn trong những
mối quan hệ, những rắc rối với con cái chúng ta. Tất cả những thứ
này. Đây là một lĩnh vực, mà chúng ta làm việc với Phật Pháp trong
ấy.
Thế
thì, chúng ta cần chuyển hóa chính mình. Chúng ta cần hành động trên
chính chúng ta; cải thiện bản tính cá nhân chúng ta. Để làm điều ấy đòi
hỏi một khối lượng khổng lồ của hành động. Điều ấy không phải dễ dàng lắm
để làm. Chúng ta phải phát triển sự nhẫn nại. Chúng ta phải phát
triển sự kiên trì [4], tập trung, tất cả những thứ này. Nhưng khuynh
hướng của chúng ta ở phương Tây là muốn những thứ gì dễ dàng, muốn những thứ
nhanh chóng, và muốn chúng rẽ tiền (hời hợt không chân thành). Chúng ta
muốn tất cả những giáo huấn ngay lập tức. Chúng ta muốn đạt đến những thứ
kỳ diệu mà chúng ta đọc được, mà một Đức Phật đã đạt được và v.v…, với một khối
lượng tối thiểu hành động như có thể.
5- CÚNG DƯỜNG
VÀ CHÍ NGUYỆN
Sự thực
rằng những giáo huấn đòi hỏi điều gì ấy ít nhất là làm chúng ta suy nghĩ, trên
nhiều cấp độ, của điều tại sao nó đòi hỏi chúng ta điều gì đấy? À, những
trung tâm Giáo Pháp [5] cần phải trả tiền thuê. Giáo thọ cần phải mua
thực phẩm và bảo hiểm sức khỏe, và trả tiển thuê, v.v…Vì thế một số tiền được
cần đến nếu quý vị không có những người tự ý cúng dường, như đã được thực hiện
ở Tây Tạng, trong những xã hội truyền thống Phật giáo. Do thế, nếu chúng
ta muốn có những vị giáo thọ, nếu chúng ta muốn những năng lực, bằng cách nào
đấy họ cần được hổ trợ. Một cách tự nguyện hay quý vị phải trả tiền tham
dự. Nhưng, đấy chỉ là một cấp độ của lý do. Đấy là trên mức độ thực
tiển. Chúng tôi nghĩ có một cấp độ sâu sắc hơn ở đây. Và cấp độ sâu
sắc hơn là nếu chúng ta muốn tiếp nhận điều gì đấy quý giá, nghĩa là những giáo
huấn, quý vị sẽ phải đặt một nổ lực to lớn và hành động để đạt được điều ấy;
khác hơn quý vị không thích hợp với giáo huấn.
Do vậy,
nếu chúng ta nhìn vào lịch sử, rồi thì, nhầm để cung thỉnh những vị giáo thọ
khác nhau [về truyền thống] đến Tây Tạng, người Tây Tạng không chỉ cần phải đi
bộ tới Ấn Độ để mời các ngài, mà họ tập họp tất cả các nguồn nguyên liệu, không
chỉ chi trả cho chi phí hành trình, mà cũng cúng dường và v.v…Thế nên, họ
vận dụng một khối lượng khổng lồ về nổ lực trong việc tiếp nhận những sự dạy
bảo. Và nhiều người sau đấy cần làm những sự hy hiến to lớn nhầm để tiếp
nhận giáo huấn. Hãy nhìn vào những gì Marpa đề ra để Milarepa phải trải
qua nhầm để tiếp nhận sự dạy bảo. Do vậy, trong một ý nghĩa, nếu chúng ta
thật sự muốn những giáo huấn, thế thì chúng ta cần làm một số nổ lực – thí dụ,
để tập họp tiền bạc với nhau. Hay, để du lịch sang Ấn Độ. Hay, để du hành
đến một nơi mà giáo huấn có thể sẳn sàng được truyền dạy, nếu nó không sẳn có
nơi chúng ta ở.
Bây giờ
điều ấy có thể. Ý của chúng tôi là, khi quý vị ở đây, Latvia sống dưới
chính thể Liên bang Sô viết. Quý vị không thể đi đâu xa xăm hay đi bất cứ
nơi nào, hay di chuyển nếu quý vị muốn dời đến một địa điểm khác nơi giáo
huấn sẳn sàng. Bây giờ những truyền dạy sẳn sàng. Quý vị có thể di
chuyển nhiều ít tùy ý dễ dàng. Đặc biệt bây giờ như một thành viên của
Liên Hiệp Âu châu. Vì thế, quý vị nên tận dụng thuận lợi của điều ấy và
không nên nói, “À, không có gì sẳn sàng nơi tôi sống hay có quá ít tiện lợi nơi
tôi sống.” Chúng tôi không có ý gay gắt nhưng nếu chúng ta thật sự, thật
sự nghiêm chỉnh về sự chuyển hóa chính mình, hành động với chính mình với Phật
Pháp, và v.v…, điều này đòi hỏi một chí nguyện thật tha thiết. Nó phải là
ưu tiên hàng đầu trong đời sống của chúng ta. Và chúng ta phải có một
lòng can trường và gan dạ và năng lượng để làm bất cứ điều gì chuyển động, hay
làm bất cứ điều gì cần thiết, để có những hoàn cảnh thuận lợi nhất cho học hỏi
và thực hành.
6- HÃY THÀNH
THẬT VÀ THỰC TẾ VỚI CHÍNH CHÚNG TA VỀ CHÍ NGUYỆN THỰC HÀNH GIÁO PHÁP
Và nếu
chúng ta không tha thiết như thế, thế thì tốt thôi. Nhưng hãy thừa nhận
rằng, “Tôi muốn học hỏi một ít về Phật giáo, may ra nó có thể giúp tôi một ít
trong đời sống của tôi, nhưng tôi không muốn thay đổi địa chỉ nếu hoàn cảnh
không thuận lợi nơi tôi ở. Và nó không có một ưu tiên hàng đầu trong đời
sống tôi: có những thứ khác quan trọng hơn.” Nếu trường hợp của chúng ta
là như thế - tốt thôi. Không có vấn đề gì. Nhưng hãy chân thật về
nó. Điều ấy thật là toàn hảo. Nhưng đừng dự tính để có một loại kết
quả nào đấy mà chúng ta có thể đạt được nếu chúng ta đặt toàn thời gian và toàn
nổ lực vào trong ấy. Các bạn phải thực tế. Đặt vào một ít thời
gian, chúng ta có một ít kết quả. Bạn thực hành trong nhiều thời gian,
chúng ta có thể có một kết quả to rộng hơn. Rõ ràng mỗi chúng ta có những
chướng ngại khác nhau, nhưng đấy là điều khái quát.
Do thế,
chúng tôi nghĩ ở phương Tây, trong những ngày hiện tại, điều gì hơi khác là hầu
hết mọi người dường như liên hệ đến sự thực hành của những cư sĩ, không phải là
của một sư thầy hay sư cô. Điều này là rất khác biệt đối với truyền thống
Phật giáo. Do bởi thế, thay vì có rất nhiều tăng viện và ni
viện cho tăng và ni, chúng ta nên có những trung tâm Phật Pháp. Không có
những thứ như trung tâm Phật Pháp trước khi Phật giáo bắt đầu phát triển ở
phương Tây.
Do vậy,
sau đó câu hỏi đến với chúng ta là: Chúng ta dự tính đạt được điều gì từ
việc đi đến một trung tâm Phật Pháp? “Chúng tôi đến một lần mỗi tuần sau
khi giờ làm việc. Chúng tôi thật sự mệt mõi và phân nữa thời gian chúng
tôi đã ngủ nếu có một buổi nói chuyện. Có lẽ chúng tôi chỉ đến và hát một
bài bằng tiếng Tây Tạng. Chúng tôi thật sự không biết điều gì đang xãy
ra, nhưng thư giản, và chúng tôi rung một cái linh, và chúng tôi về nhà.”
Thế nên, chúng ta nên dự tính kết quả gì từ điều ấy? Không quá nhiều,
điều gì buồn, chúng tôi thấy, là trung tâm Phật Pháp thậm chí không thật sự là
một câu lạc bộ xã hội, trong một ý nghĩa nào đấy. Giống như đến Thánh
Đường Thiên Chúa giáo, hay một giáo đường Do Thái giáo, hay một đền thờ Hồi
giáo, hay bất cứ gì, và có một cảm giác cộng đồng. Chúng ta không nói ở
đây về một cảm giác bè phái, nhưng trên một cảm giác sâu sắc hơn của sự tương
hổ xã hội. Do thế, điều gì đáng chú ý trong những cộng đồng tôn giáo khác
Đạo Phật này là nếu ai đấy trong cộng đồng bị bệnh, những người khác trong cộng
đồng đến hổ trợ. Họ có thể mang thực phẩm đến; họ hỏi ai đấy đã không đến
một hay hai tuần rồi; họ gọi điện thoại; họ kiểm điểm lại xem điều gì đang xãy
ra, v.v… Điều này dường thiếu vắng trong hầu hết những trung tâm Phật Pháp của
chúng ta. Người ta đến, họ ngồi trong lớp, hay họ thực tập thiền quán,
hay họ thực hiện nghi thức cúng dường [6] với nhau, và, thế thôi.
Có thể họ mời nhau một cốc bia sau khi rời trung tâm, điều ấy hơi kỳ một chút
từ một trung tâm Phật Pháp. Nhưng trong mọi trường hợp, chúng tôi đã nghe
rất nhiều phàn nàn từ những người nói rằng, “Phật giáo có là gì? Tôi bị
bệnh và chẳng ai gọi đến tôi. Tôi ở trong nhà thương, không ai đến thăm,
chẳng ai quan tâm đến.”
Nếu sự
thực hành hằng ngày như một Phật tử ở phương Tây chỉ có nghĩa là chúng ta tự
mình đến một trung tâm Phật Pháp, thực hành nghi lễ nho nhỏ của chúng ta, hay
nghe một buổi giảng, hay bất cứ điều gì đấy mà chúng ta làm, và chúng ta về nhà
và có thể thực hiện một ít thiền tập mỗi ngày, nhưng chúng ta không quan tâm
ngay cả những người khác, một thành viên trong trung tâm Phật Pháp của chúng
ta, điều này là gì? Chúng ta ngồi đấy và nói, “tôi đang làm điều này vì
tất cả chúng sinh; nguyện cho tất cả chúng sinh được an lạc hạnh phúc – nhưng
ai đấy trong trung tâm Phật Pháp của chúng ta trong nhà thương và tôi không có
thời gian để đi thăm, và, tôi quan tâm điều gì?” Điều này không thích
đáng. Tôi muốn nói là, nếu sự thực tập Phật Pháp hằng ngày của chúng ta ở
phương Tây như thế, có điều gì đấy không đúng. Thế nên, chúng tôi thường
nghĩ chúng ta trở nên hơi quá tập trung … hơi quá hẹp hòi, tôi có nên nói là…trong
sự tập trung của chúng ta đối với việc thực hành những nghi lễ, thiền tập tự
mình, hay trong một nhóm, nhưng không thật sự, trong sự tiếp nhận trách nhiệm
[7] để giúp đở một cách xã hội tính, như chúng tôi nói, ngay cả những người
trong nhóm của chúng ta. Chưa nói đến gia đình chúng ta. Chưa tính
đến xã hội chúng ta. Và ngay cả khi chúng ta mang tính chất tập thể, còn
gọi là “Phật giáo dấn thân” bắt đầu ở phương Tây…Thật sự nó đã bắt đầu ở
Thái Lan. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, chúng ta bắt đầu có
nó. Trong một số trung tâm Phật Pháp, họ có những chương trình cho tù
nhân, thí dụ thế. Do vậy, một số ít người tình nguyện và họ đi vào nhà tù
để có những bài học Phật Pháp cho những tù nhân. Thật tuyệt với.
Nhưng họ vẫn không thể sống hòa hiệp với cha mẹ của họ. Họ vẫn không đi
thăm những ai đó bị bệnh. Hay mang thực phẩm cho ai đó bị bệnh trong trung tâm
của họ. Nhưng bởi vì họ đã đi đến nhà tù, rồi họ nghĩ, “À, tôi đã hoàn
thành nhiệm vụ xã hội của tôi.” Điếu ấy không đủ. Đủ rồi đấy,
họ nghĩ thế.
7- LÀM CHO
PHẬT GIÁO THÀNH MỘT LỐI SỐNG
Okay.
Bây giờ, để đi xuống đến câu hỏi chúng ta thực sự làm gì mỗi ngày như một hành
giả Phật giáo? Có những loại thực hành nào đấy mà chúng ta dự định cho
mỗi ngày; và chúng thực sự hữu ích. Nó có nghĩa là có Phật kết
thành một phần của cả ngày, không chỉ như điều gì đấy chúng ta thực hiện như
một sở thích riêng – một ít thời gian trong ngày hay trong tuần, chúng ta
quên bẳng về nó trong những thời gian còn lại. Bây giờ một điểm quan
trọng ở đây, đấy là, toàn bộ khái niệm về việc thể hiện là một người tế nhị, tử
tế. Để là một người Phật tử không chỉ có nghĩa là một người tử tế ân
cần. Nó có nghĩa là điều gì ấy thêm vào để là một người ân cần tử
tế. Do thế, dĩ nhiên chúng ta phải là một người tử tế ân cần. Điếu
ấy là căn bản. Nhưng điều ấy không loại trừ những giáo huấn của Đức
Phật. Tất cả mọi tôn giáo dạy chúng ta là một người ân cần. Thậm
chí bạn không cần phải theo một tôn giáo nào để được dạy rằng thật quan trọng
để là một người tử tế. Thế nên, dĩ nhiên chúng ta cố gắng trong đời sống
hằng ngày để giúp đở người khác. Và, nếu chúng ta không thể hổ trợ, tối
thiểu chúng ta không làm tổn thương ai khác. Đây là loại căn bản tối
thiêu. Nếu chúng ta muốn nói, “Đấy là sự thực hành Phật Pháp của tôi,”
tốt thôi. Nhưng đừng nghĩ rằng đó là Phật giáo “thứ thiệt”. Đó chỉ
là một bản dịch rất là nhạt. Nhưng là một điều cần thiết một cách chắc
chắn. Không phải là điều gì đấy để quên đi. Vâng, tốt. Chúng
ta cố gắng để học hỏi điều gì có nghĩa để là một người tử tế ân cần và để tỉnh
thức khi chúng ta không hành động như thế, và để điều chỉnh cho nó đúng.
Điều
này liên hệ đến việc không giận dữ với người khác. Nếu chúng ta thực sự
giận dữ, hãy xin lỗi một cách nhanh nhất mà chúng ta có thể làm. Hãy cố
gắng để ít vị kỷ hơn. Hãy cố gắng để cảm nhận đến sự cần thiết của người
khác vì những thái độ của chúng ta tác động trên những người khác. Tất cả
những thứ loại này – rất là căn bản. Nếu chúng ta liên hệ trong một loại
thương trường nào đấy; chúng ta cố gắng chân thật trong việc làm ăn. Nếu chúng
ta giao thiệp với khách hàng…nếu chúng ta hoạt động trong một loại thương
nghiệp phục vụ nào đấy…hãy nhớ rằng họ cũng là những con người như chúng ta
và họ thích được đối xử một cách tử tế, không bị phớt lờ hay lãng quên
trong một cung cách rất nghịch lý. Người khách hàng cuối cùng trong ngày
cũng đáng được sự chú ý, săn sóc và nâng niu dễ thương như người khách đầu tiên
của ngày ấy. Tất cả những điều này là những gì Đức Đạt Lai Lạt Ma liên hệ
đến như “căn bản giá trị của con người.” Không cần thiết phải căn cứ trên
bất cứ một triết lý hay tôn giáo nào. Và không chỉ với những người xa lạ,
những người mà có hơi dễ dãi hơn bởi vì chúng ta chỉ thấy họ trong một
vài phút và rồi chúng ta không phải liên hệ nữa sau đấy. Nhưng với những
thành viên của gia đình chúng ta, những người sống với chúng ta, những người mà
chúng ta làm việc với họ, v.v…Chúng ta không nên quên lãng những người gần gũi
với chúng ta nhất.
Một thí
dụ cổ điển ở phương Tây: Chúng ta đi đến thăm viếng cha mẹ chúng ta, hay
chúng ta sống với cha mẹ chúng ta, và họ muốn chúng ta ngồi xuống và xem truyền
hình với họ. Chúng tôi nhớ lại khi mẹ chúng tôi còn sống và tôi muốn thăm
viếng bà, mẹ tôi muốn tôi ngồi xem truyền hình với bà, và chương trình vấn đáp
(quiz show)…mẹ tôi thích chương trình ấy… và luôn luôn khuyến khích chúng tôi
trả lời những câu hỏi của chương trình. Như, “Cái tủ lạnh giá là bao
nhiêu?” Trong những trường hợp ấy, điều rất quan trọng là rộng rãi – rộng rãi
với thời gian của chúng ta. Đừng ngồi đấy và trông hoàn toàn chán
nãn. Không ngồi đấy và lấy xâu chuỗi ra mà trì chú trong khi chúng ta
đang ngồi trước truyền hình. Nhưng hãy thật sự rộng lượng biếu tặng dâng
hiến thời gian này đến cha mẹ chúng ta. Hãy cố gắng để trả lời những câu
hỏi, đừng e ngại rằng có thể dường như chúng ta ngu ngốc hay ngớ ngẫn thế nào
trong lúc ấy.
Bây
giờ, thì thật ra, chúng ta có thể không phải ngồi đấy cả đêm! Chúng ta có
thể nói, “Con có những việc khác cần phải làm, nhưng con sẽ ngồi với cha mẹ nửa
tiếng hay một giờ đồng hồ,” hay bất cứ nó là gì. Nhưng hãy ân cần.
Đừng nói những lời thô lổ như, “Trời ơi, điều đó ngu ngốc làm sao; chỉ
phí thời gian; con có những việc khác quan trọng hơn phải làm.” Đấy là
một trong những lời nguyện của Bồ tát [8] – một trong những nguyện thứ
yếu: “Hãy đồng sự với những gì người khác đang làm, miễn là việc ấy không
tiêu cực.”
8- LÀM THẾ NÀO
ĐỂ BIẾN PHẬT PHÁP THÀNH MỘT LỐI SỐNG
Thế
nên, nếu chúng ta là một hành giả Phật Pháp, khi chúng ta tỉnh giấc vào buổi
sáng, điều rất quan trọng …nói về điều này trong nhiều luận điển…hãy thiết lập
mục tiêu cho một ngày ấy. Động cơ của chúng ta là gì? Động cơ của
chúng ta hãy nhớ là: “Ý định mà chúng ta cố gắng để đạt đến là gì? Tôi
đang làm gì với đời sống của tôi? Cảm xúc nào phía sau điều ấy? Và
rồi thì ý định thật sự theo đuổi mục tiêu ấy. Khi chúng ta thức dậy, lý
tưởng nên là, “Cảm ơn Phật trời con đã không chết ttrong giấc ngủ đêm qua và kỳ
diệu làm sao bây giờ con có nguyên một ngày phía trước mà con có thể hành động
xa hơn theo con đường của Phật Pháp.” Hơn là than van, “Ối trời lại một
ngày nữa.”
Cũng
giống như thế khi chúng ta đi ngủ. Thay vì, “Ôi, cảm ơn trời, một ngày đã
chấm dứt và tôi chỉ chờ mong rơi vào một giấc ngủ mà không biết gì nữa cả,” mà
nên “Tôi trông mong mau tới sáng ngày mai để tiếp tục.” Do thế, toàn bộ
điều này đưa đến việc gì? Nó đưa đến sự quy y. Nương tựa hay quy
y. Chúng tôi không dùng từ ngữ nhiều bởi vì chúng tôi nghĩ rằng điều đang
được thực sự nói đến là có một phương hướng trong đời sống chúng ta. Một
phương hướng trong cuộc sống chúng ta mà nó là an toàn, là điều bảo vệ chúng ta
khỏi khổ đau. Đấy là toàn bộ quan điểm về nương tựa hay quy y. Nó
bảo vệ chúng ta khỏi khổ đau. Thế nên, chúng ta đang đi trong một phương
hướng an toàn trong đời sống của chúng ta. Vì thế chúng ta tái khẳng
định, “Đây là phương hướng tôi đang đi trong đời sống của tôi. Nó có ý
nghĩa; nó có mục tiêu. Tôi đang hành động trong phương hướng của Phật
Pháp – sự dừng lại thật sự của tất cả những cảm xúc phiền não, tất cả những sự
bất giác, tất cả những si mê. Tôi đang hành động trong phương hướng ấy,
tôi lìa bỏ tất cả những thứ tạp nhạp đó trong sự liên tục tâm thức của tôi mà
nó là nguyên nhân cho quá nhiều rắc rối. Và để thực chứng và biến thành hiện
thực tất cả những phẩm chất, tất cả những sự thông hiểu, và tất cả những phẩm
chất tốt đẹp của tâm linh và v.v…, và nó sẽ mang đến sự chấm dứt hoàn toàn, sự
chấm dứt thật sự [sự loại trừ vĩnh viễn những phiền não và chúng sẽ không bao
giờ trở lại được].”
Cho dù
chúng ta đang làm việc ấy vì lợi ích riêng tư hay chúng ta đang làm điều ấy vì
lợi ích cho mọi người – cuối cùng, phương hướng an toàn là cả Tiểu thừa lẫn Đại
thừa. Thế nên, tốt, bất cứ thứ nào. Nhưng đấy là phương hướng mà
chúng tôi đang ở trong ấy. Đấy là Pháp bảo. Cách mà những Đức Phật
đã làm trong sự toàn vẹn, và cách mà những Thánh Tăng – đoàn thể Tăng già cao
thượng, đấy là điều mà Tăng già đang nói đến – đã hoàn thành một phần. Vì
thế, đấy là mục tiêu mà chúng tôi đang tìm cầu, và tại sao? À, chúng
tôi chán ghét và thật sự không muốn tiếp tục khổ đau. Hay, thêm
nữa, chúng tôi đang tìm cầu điều ấy, vì lòng bi mẫn đến những người khác đang
khổ đau, thế thì có một cảm xúc nào đàng sau nó.
Phương
hướng này trong cuộc đời chúng ta, phương hướng an toàn, điều này cần thiết để
là điều gì thật sự rất là, rất là sâu sắc, rất là chủ quan. Điều này đã
làm cho chúng ta là một Phật tử. Không chỉ là thể hiện là một người lịch
sự, tử tế. Thêm vào là một người ân cần tử tế. Vì điều này là rất sâu sắc
và rất chân thành…phương hướng này…không quá dễ dàng. Bởi vì những gì
thật sự yêu cầu là việc hoàn toàn tin chắc rằng có thể đạt được điều này.
Nếu bạn tin rằng điều ấy có thể, thế thì nó chỉ là mong ước trong suy tư cho
điều gì đấy…à, chúng tôi không biết, nó chỉ là khả năng tưởng tượng, có phải
không? “Chúng ta có thể trở thành một vị Phật, tôi có thể trở thành một
vị Phật? Ối dào. Làm thế nào chúng ta hay tôi có thể trở thành một vị
Phật?”
Vì thế,
dĩ nhiên, như là một Phật tử trong lúc đầu, chúng ta sẽ không tin điều ấy là có
thể. Chúng ta có thể có niểm tin, căn cứ trên người biết điều gì
[đấy]? Uy đức của vị thầy hay bất cứ điều suy tư mong ước gì.
Nhưng chúng ta cần phải hành động trên điều ấy. Hãy hành động thích đáng
chắc chắn rằng điều này là thực sự có thể, rồi thì chúng ta có thể thật sự đặt
toàn bộ con tim và năng lượng vào trong ấy. Trái lại thì không có nhiệt
tâm. Và nó sẽ đòi hỏi một sự thông hiểu rộng lớn về tâm thức, sự liên tục
của tinh thần, làm thế nào tự ngã tồn tại… nó có thể là một sự du hành của cái
tôi…và một sự thông hiểu nào đấy về điều mà chúng ta gọi là Phật tính [9],
những nhân tố làm chúng ta có thể trở thành một vị Phật. Ồ, điều ấy thật
sự có nghĩa là gì?
Vì đây
là phần làm việc của chúng ta, như một Phật tử. Để cố gắng thật sự hiểu
biết về tất cả những điều này. Chúng rất là, rất là quan trọng, vì thế,
phương hướng này mà chúng ta đang theo đuổi là điều gì ấy mà chúng trở
nên rất là, rất là ổn cố trong chúng ta. Chúng ta hoàn toàn bị thuyết
phục không chỉ rằng tôi muốn đi vào phương hường này, mà có thể đạt đến mục
tiêu.
Vì thế,
chúng ta bắt đầu một ngày với sự tái khẳng định khuynh hướng này. Và
chúng ta kết thúc một ngày với một sự hồi hướng: với sự ôn lại những gì
chúng ta đã hoàn tất suốt cả ngày. “Có phải tôi đã thực sự theo điều
này? Tôi đã hành động như thế nào?” Chúng ta hành động phản lại
điều này không, chúng ta có giận dữ không, v.v…thừa nhận điều ấy, sám hối [10],
tịnh hóa, có những loại việc nào đấy chúng ta có thể làm nên sự hổ trợ
ấy. Và bất cứ năng lực tích cực nào, bất cứ sự hiểu biết nào mà chúng ta
thu thập được, hãy cung hiến hồi hướng cho sự đạt được những mục tiêu
này. Vì vậy, chúng ta tái xác định mục tiêu và chúng ta cũng muốn tiếp tục
trong ngày mai. Nhưng điều quan trọng là khuynh hướng này lúc bắt đầu một
ngày và sự hồi hướng vào cuối ngày không giống như hai phía của một tủ
sách: rằng chúng ta chỉ có điều gì ấy hổ trợ nó trên phía này, và điều gì
đấy hổ trợ ở phía kia, và thế là xong. Nó không phải như thế. Tông
Khách Ba Đại sư nói rằng, “Khuynh hướng này, động cơ này, cần phải luôn
tâm niệm trong suốt cả ngày – không chỉ lúc bắt đầu, và không phải chỉ vào lúc
kết thúc,” điều ấy có nghĩa là sự nhắc nhở chính mình về điều này là suốt
cả ngày. Hãy nhớ lấy điều ấy [mục tiêu tu tập của chúng ta].
Nhất
Hạnh Thiền sư có một phương pháp rất dễ thương cho điều ấy. Ngài có
“Tiếng chuông tỉnh thức,” mà trong thời gian tu tập trong ngày, một tiếng
chuông vang lên trong những thời gian bất chợt nào đấy và mọi người dừng lại
trong một vài khoảnh khắc để trở về với chính niệm, với khuynh hướng, với động
cơ [tu tập], v.v…Thế nên một trong những người học trò của tôi đã thiết lập
chương trình cho chiếc điện thoại cầm tay của ông ta vì vậy chiếc phone tay có
thể ban cho những tiếng bip bip vào những thời gian khác nhau trong ngày.
Ông ta dùng điều này như tiếng chuông tỉnh thức của ông ta. Do vậy, có
nhiều phương pháp mà chúng ta có thể áp dụng để giúp chúng ta nhớ lại thái độ,
động cơ, quan điểm này, nếu nó không là một điều gì ấy tự động đến với chúng
ta. Cũng có một tập quán để tái khẳng định sự quy y của chúng ta, phương
hướng an toàn của chúng ta, và đảnh lễ phủ phục ba lần vào buổi sáng khi chúng
ta thức dậy và vào buổi tối trước khi chúng ta đi ngủ. Rất tốt, rất hữu
ích. Một cách rõ ràng, nếu chúng ta đi trên một chuyến máy bay qua đêm,
chúng ta không bước ra giữa lối đi để mà đảnh lễ. Nếu chúng ta không thể
làm điều ấy hay chúng ta ở trong quân đội, trong một lều trại quân sự, hay bất
cứ điều gì, thế thì chúng ta chỉ chấp tay búp sen lại trong một tư thế cung
kính và tưởng tượng rằng chúng ta đang thi lễ. Điều ấy cũng rất tốt
[không khác gì chúng ta đang đảnh lễ trước bàn Phật]. Đấy là một trạng
thái của tâm thức rất quan trọng.
Rồi
thì, nếu chúng ta có khả năng, sau đó chúng ta sẽ sắm sửa những chén nước,
những vật cúng dường, v.v…và một ít gì như một kệ thờ hay một bàn
thờ. Nhưng trước hết, chúng ta quét dọn phòng. Đấy là một sự mở đầu
cho toàn bộ [mục tiêu] của chúng ta: quét dọn phòng, làm sạch sẽ. Điều ấy
rất quan trọng. Cung cách được giải thích là chúng ta biểu lộ sự tôn kính
đến những vị khách danh dự mà chúng ta đang mời thỉnh vào trong chương trình tu
tập hành thiền của chúng ta, như chư Phật, chư Bồ tát,v.v…Nếu Đức Phật thật sự
đến nhà chúng ta bằng thân thể, chắc chắn chúng ta sẽ quét nhà, lau sàn, và
chúng ta sẽ lựa chọn áo quần và sửa sang giường gối. Tương tự thế, chúng
ta làm điều ấy trước giờ thiền tập buổi sáng.
Vì thế,
đây là sự thực hành, mà chúng ta thực hiện và nó hổ trợ trên một mức độ
khác. Do vì nếu môi trường chúng ta sạch sẽ và ngăn nắp, tâm thức chúng
ta sẽ ảnh hưởng bởi điều đấy, và tâm thức trở nên ngăn nắp và thanh tịnh.
Nếu môi trường chung quanh chúng ta hổn độn và nhơ uế, điều ấy có một sự tác
động đến tâm thức chúng ta – cung cách suy nghĩ của mỗi chúng ta. Thế
nên, một môi trường trật tự là rất hữu ích.
Sau đó,
chúng ta cúng dường một vài thứ gì đấy. Thông thường là những chén
nước. Chúng không cần phải làm bằng vàng; chúng không cần phải làm bằng
bạc. Milarepa chỉ dùng chiếc ly uống nước của ngài. Chỉ là thứ gì
đấy. Và nếu chúng ta cúng dường thực phẩm, chúng ta không để nó trên bàn
thờ cho đến khi nó thiu thối rồi vứt bỏ nó. Chúng ta cúng trong một ngày,
có thể hai ngày, [hay có thể chỉ sau một nén nhang] và rồi chúng ta ăn
nó. Nước mà chúng ta cúng trong những cái chén, vào cuối một ngày, hoặc
là chúng ta dùng nó để tưới cây…nhưng rõ ràng chúng ta không muốn làm cây cỏ
úng thối vì quá nhiều nước…hay đổ nó vào bồn nước, nhưng không phải bồn
cầu. Nói cách khác, chúng ta cố gắng để biểu lộ sự tôn kính cho những gì
chúng ta đang làm. Điều ấy rất quan trọng. Điều ấy không chỉ tôn
kính chư Phật, chư Bồ tát. Nó là sự tôn trọng chính chúng ta và tôn trọng
cho con đường tâm linh của chúng ta.
Sau đó
chúng ta có một ngày thực hành – rất là, rất là quan trọng. Nhưng thực
hành hằng ngày, chúng tôi không nói ý nghĩa đơn thuần những gì chúng ta nói
năng mà chúng ta thực hành suốt cả ngày dài và cố gắng để áp dụng những giáo
huấn trong đời sống chúng ta, trong những trường hợp thực sự của cuộc
sống. Nhưng cũng là, một buổi thiền tập nghi thức.
9- BUỔI THIỀN
TẬP
Bây
giờ, những gì chúng ta thực hiện trong buổi thực hành thiền tập nghi
thức? Đầu tiên cả, môi trường. Không cần thiết phải có những nén
nhang và lễ nhạc, và tỉ mỉ mọi thứ. Nếu chúng ta có những điều ấy, tốt
thôi. Nhưng đừng làm điều ấy thành một chuyến du hành kiêu hãnh của tự
ngã. Nó không cần thiết. Đơn giản luôn luôn là tốt hơn. Chúng
ta cần trước nhất, trong thực hành của chúng ta, lắng đọng và thiết lập một ý
hướng thật mạnh mẽ. Chúng ta đã thiết lập động cơ của chúng ta rồi.
Nhưng hãy đặt một khuynh hướng mà, “Trong buổi tu tập này, tôi sẽ cố gắng để
không rơi vào giấc ngủ, không mê mờ, và không chỉ ngồi đấy nhưng để tâm tư rong
ruỗi [khắp nơi].” Rất dễ dàng để chúng ta bỏ qua phần này. Chúng ta
ngồi xuống và quên lãng bất cứ những sự trù bị cho chính mình trong một khuôn
thước tinh thần thích hợp. Thái độ của chúng ta thường là, “tôi sẽ đi làm
trể và tôi chỉ muốn thông qua chương trình này một cách mau lẹ nhất mà tôi có
thể làm,” và rồi chúng ta tăng tốc qua buổi thiền tập ấy và, “Cảm ơn Phật và Bồ
tát con đã tu xong buổi này. Có lẽ con đã làm nên một kỷ lục mới về tốc
độ qua việc tu tập của con, ôi nó tốt làm sao.” Và rồi chúng ta lui ra
khỏi phòng thiền để đi làm công việc trong ngày. [Vì vậy phải nhớ tập
trung vào buổi thiền tập cá nhân]. Do bởi sự thực tập hàng ngày cho chúng ta sự
ổn định. Nó cho chúng ta sự liên tục trong đời sống của chúng ta.
Không kể điều gì đang xãy ra trong đời sống của chúng ta, luôn luôn có một phần
trong ngày duy trì sự ổn cố tinh thần. Vì thế, sự thực hành hằng ngày là
rất hữu ích cho đời sống.
Sự thực
tập hằng ngày không cần phải mất nhiều thời gian. Có thể là năm
phút. Không hề gì. Chỉ là một ít điều gì đấy. Điều luôn luôn
được đề nghị là sự thực hành bảy phần. Tôn giả Tịch Thiên bố cục rất là
dễ thương, vị đại sư của Ấn Độ. Chúng ta đã bắt đầu nó với 1- đảnh lễ, và
2- cúng dường. Sau đó thú nhận những lỗi lầm mà chúng ta đã làm, những
điều chúng ta mới có. 3- Sám hối chúng, “con sẽ cố gắng để không lập lại
những điều ấy.” Tái khẳng định phương hướng trong đời sống của chúng ta,
“Con sẽ làm điều gì đấy tích cực để hóa giải chúng,” Và rồi thì, 4- hoan
hỉ trong những điều tích cực mà những người khác đã làm, mà chúng ta đã
làm. 5- Cung thỉnh những vị đạo sư, giáo thọ, thầy giảng dạy, đừng ra đi
– tôi nói điều này một cách nghiêm chỉnh, 6- tôi muốn đi cho đến tận cùng của
con đường giải thoát, giác ngộ. Và rồi 7- hồi hướng lúc kết thúc:
“Bất cứ năng lực tích cực nào đến từ việc thực hành này, và từ tất cả mọi thứ
mà con và những người khác đã làm, nguyện hướng đến không chỉ cho riêng sự giác
ngộ của con, mà cho sự giác ngộ của mọi người.” Chúng ta đọc qua đọc lại
tất cả những loại giáo lý… Ấn Độ, Tây Tạng, và v.v…điều này là sự thực hành
Phật Pháp căn bản nhất, sự thực hành bảy phần [11].
Rồi
thì, nếu quý vị muốn trì tụng chân ngôn mantra, nếu quý vị muốn thực hành bất
điều gì khác hơn là thiền tập, tốt thôi. Nhưng đây là căn bản của
nó. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn luôn nhấn mạnh, chúng ta thật sự cần điều
quan trọng nhất được gọi là “thiền phân tích,” hay “thiền quán”, hay “liễu biệt
thiền”, điều ấy một cách căn bản …ở trình độ của chúng ta..suy tư về những giáo
huấn – hãy chọn một đề tài nào đấy và quán chiếu về nó trong những dạng thức
của đời sống cá nhân của chúng ta. Thí dụ: “Tôi đang có một sự khó khăn
với người này ở sở làm,” và, rồi thì chúng ta phân tích điều ấy. “Tôi
thấy khó khăn gì? Vấn đề là gì? Làm thế nào tôi đối phó với
nó? Tôi cần phát triển nhẫn nại. Những giáo huấn nào nói về kiên
trì, hay nhẫn nhục? Phương pháp là thế nào?” Chúng ta ngồi xuống và
thực hành sự thể hiện nhẫn nại trong khi chúng ta nghĩ về con người ấy.
Đấy là sự thực hành của Phật giáo. Đây là ý nghĩa chính xác của từ ngữ:
“thực hành.” Chúng ta đang thực hành để có thể thực hiện sau này trong
những trạng huống thực sự của đời sống. Và rồi thì trong ngày, hãy cố
gắng để nhớ lại những giáo huấn này. Hãy cố gắng để áp dụng chúng một
cách thật sự. Đấy là sự thực hành Phật Pháp thật sự - không phải chỉ có
một cái màn ảnh “Om Mani Padme Hum” trên máy điện toán của chúng ta. Hay
có một chương trình điện toán mà nó lập lại dòng chữ “Án Ma Ni Bát Di Hồng”
trên màn ảnh trong mỗi giây, hay bất cứ điều gì đại thể như thế. Tôi nói
thật đấy nhé!
Và sau
đó, như tôi nói, vào cuối ngày, ôn lại những gì chúng ta đã làm. Một cách
chắc chắn không cảm thấy tội lỗi, nhưng, “Tôi sẽ cố gắng tốt hơn nếu tôi đã
không làm tốt.” Và, luôn luôn hãy nhớ đặc trưng căn bản của luân hồi là
những gì đi lên và xuống. Tiến trình không bao giờ đơn giản. Nó sẽ
chẳng bao giờ tốt hơn mỗi ngày. Cho dù chúng ta cố gắng thế nào đi nữa,
vài ngày tốt hơn, vài ngày nó sẽ tệ hơn. Đôi ngày chúng ta cảm thấy giống
như thực hành, đôi ngày chúng ta không cảm thấy gì cả. Điều ấy là hoàn
toàn bình thường, và nó sẽ tiếp tục xãy ra cho đến khi chúng ta trở thành một
vị a la hán – một chúng sinh giải thoát. Điều ấy sẽ là một thời gian dài
tính từ bây giờ.
Điều ấy
có nghĩa là chúng ta sẽ từ bỏ giận dữ hay tham lam cho đến khi chúng ta trở
thành một vị a la hán. Điều ấy rất là khiêm tốn. Có thể ít
hơn, nhưng chúng ta sẽ không lìa bỏ chúng (tham sân si) một cách hoàn toàn cho
đến khi ấy (khi chúng ta chứng quả a la hán). Thế nên, cho đến khi đạt
đến quả a la hán, nó sẽ đi lên và đi xuống. Và thái độ nào sẽ lợi lạc
nhất trong những tình trạng như thế? Nó gọi là “bình đẳng.” [12]
Điều ấy diễn dịch thành thái độ, “Vì thế? Tôi không cảm thấy giống như
thực hành. Tôi đang trong một cảm nhận xấu, sao thế?” Quý vị cứ
tiến tới trước bằng mọi cách. Tôi muốn phỏng đoán gì về luân hồi?
Dĩ nhiên tôi sẽ không cảm thấy giống như thực hành một vài ngày. Dĩ nhiên
tôi sẽ sa vào tâm trạng xấu. Thế thì sao? Không có gì quan
trọng. Và nếu tôi cần ngơi nghĩ một lúc, tốt thôi. Không có gì quan
trọng. Chúng ta phải tránh hai cực đoan của việc thể hiện quá căng thẳng
đối với chúng ta, hay đối xử với chính chúng ta như một đứa bé con.
Nhưng hãy tiến tới trước, cho dù nó là thế nào. Điều ấy gọi là, “áo giáp
nhẫn nhục” nó sẽ bảo vệ chúng ta khỏi bất cứ tình cảnh nào. Chúng
ta chỉ tiến tới. Và chúng ta dùng những phương tiện thiện xảo.
Chúng ta học từ Giáo Pháp những gì là phương tiện thiện xảo để đối phó với
những tình huống khó khăn và áp dụng chúng trong đời sống thực tiển hằng
ngày. Chúng tôi sẽ cho quý vị một thí dụ.
10- ĐỂ CHIẾN THẮNG CHO NHỮNG
NGƯỜI KHÁC
Chúng
tôi sống trong một góc náo nhiệt của thủ đô. Và đôi năm về trước người ta
đã xây bên dưới chân tôi, ở tầng trệt, một cửa hàng thức uống rất rất là quen
thuộc. Và, nó mở cửa từ bảy giờ sáng cho đến ba giờ khuya, bảy ngày một
tuần. Vào mùa hè…nó là một góc phố, nhà tôi ở trên một góc phố…vì thế có
những bàn ghế ở bên ngoài cả hai bên nhà chúng tôi. Người ta uống bia ở
bên ngoài, nói chuyện lớn tiếng, cười đùa vang, v.v…cho đến ba giờ khuya, mỗi
đêm. Thế nên, sau một khoảng thời gian ngắn nằm trên giường vào ban đêm
và cố gắng để ngủ với tất cả những thứ âm thinh này…và mơ về thời kỳ trung cổ,
và có một cái vạt lớn dầu hắc sôi sùng sục mà chúng tôi có thể đổ trên những
người khác – bỏ qua điều ấy như một giải pháp, rồi thì chúng tôi nhớ lại những
lời dạy, “Hãy để chiến thắng cho những người khác, chấp nhận sự thua cuộc về
chính mình.”
Nhà bếp
của tôi là phòng duy nhất trong nhà không đối diện với con đường bên
ngoài. Chúng tôi đã di chuyển nệm gối và đặt nó trên nền nhà của phòng
nấu ăn và ngủ trong bếp suốt mùa hè. Cách này, những cánh cửa được
đóng kín. Yên lặng. Chúng tôi rất là rất là vui. Nó thoãi
mái. Và chúng tôi đã để chiến thắng cho người khác. Vì thế, đấy là
sự áp dụng thực tiển giáo huấn này. Và, không có gì quan trọng đối
với việc ngủ trong bếp. Sao thế? Quý vị đặt nệm gối dựng đứng lên
tường vào ban ngày và đặt xuống vào ban đêm. Không có gì trở ngại.
Vì vậy
giống như thế. Chúng ta cần phải chế biến, sáng tạo, với những giáo
huấn. Áp dụng chúng. Và nhầm để thực hành chúng, chúng ta cần biết
những giáo huấn.
Vì như một phần trong sự thực tập hàng ngày, là rất rất hữu ích, những sự hướng dẫn để đối phó với những tình huống khăn, Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ [13], Tám Đề Mục Luyện Tâm [14], Bảy Thái Độ Rèn Luyện [11], và những tài liệu tu tâm lojong này đầy những phương pháp và chỉ dẫn vô cùng thực tiển. Đây là những giáo huần thực tiển nhất. Và khi quý vị xuyên suốt tất cả những giáo huấn này mỗi ngày, nó không chỉ giúp quý vị tỉnh giác về chúng …và trong một ngôn ngữ khác để nghĩ nhớ về chúng…mà cũng, nếu quý vị đối diện với vấn đề đặc thù nào, như chúng ta đã đọc qua, chúng ta nẩy lên với những gì thích hợp nhất để áp dụng. Và sau đó chúng ta dừng lại ở đấy và quán chiếu về nó, và thật sự quyết định chúng ta sẽ áp dụng điều này như thế nào. Rất là lợi ích. Vô cùng thực tiển.
Vì như một phần trong sự thực tập hàng ngày, là rất rất hữu ích, những sự hướng dẫn để đối phó với những tình huống khăn, Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ [13], Tám Đề Mục Luyện Tâm [14], Bảy Thái Độ Rèn Luyện [11], và những tài liệu tu tâm lojong này đầy những phương pháp và chỉ dẫn vô cùng thực tiển. Đây là những giáo huần thực tiển nhất. Và khi quý vị xuyên suốt tất cả những giáo huấn này mỗi ngày, nó không chỉ giúp quý vị tỉnh giác về chúng …và trong một ngôn ngữ khác để nghĩ nhớ về chúng…mà cũng, nếu quý vị đối diện với vấn đề đặc thù nào, như chúng ta đã đọc qua, chúng ta nẩy lên với những gì thích hợp nhất để áp dụng. Và sau đó chúng ta dừng lại ở đấy và quán chiếu về nó, và thật sự quyết định chúng ta sẽ áp dụng điều này như thế nào. Rất là lợi ích. Vô cùng thực tiển.
Vì thế
có những sự thực hành hằng ngày, làm thế nào chúng ta thực tập PG trong
xã hội phương Tây. Chúng tôi nghĩ rằng nó thích hợp cho mọi người, trong
bất cứ hoàn cảnh nào – cho dù phương Tây, cho dù phương Đông, cho dù ngày nay,
cho dù ngày xưa, hay tương lai. Và như chúng tôi đã nói, để đón nhận bất
cứ những kết quả nào, chúng ta cần đặt trọng tâm vào sự thực tập cần mẫn.
Và, những kết quả trên vấn đề rèn luyện tâm thức sẽ không đến một cách rẻ rúng,
hay nó không đến qua sự thực tập hời hợt thiếu chân thành.
11- CÓ PHẢI LÀM CHO NHỮNG GIÁO
HUẤN PHẬT GIÁO THUẬN TIỆN MỘT CÁCH DỄ DÀNG LÀ LÀM HỎNG MỤC TIÊU?
Ngày
nay, những giáo huấn là hoàn toàn sẳn sàng. Chúng tôi đã đề cập trước
đây, tại nhiều trung tâm Pháp, hay những sự kiện lớn, quý vị phải trả tiền để
tham gia. Nhưng cũng có…thí dụ như trang web của chúng tôi…có một số
lượng lớn giáo lý Pháp bảo sẳn sàng ở đấy không tốn tiền. Thế nên, ngay
khi có máy điện toán và mạng lưới … là điều dễ dàng hơn và dễ dàng hơn khắp thế
giới…thế thì quý vị không phải du hành bất cứ nơi nào. Quý vị không phải
trả bất cứ khoản tiền nào. Quý vị có thể tiếp nhận ngay tất cả những giáo
huấn, hay tối thiểu nhiều giáo huấn, và điều này chắc chắn sẽ gia tăng trong
tương lai.
Vì thế
có phải sự đạt đến mục tiêu trong sự tu tập để rèn luyện những phẩm chất cá
nhân của chúng ta là thật sự đặt nổ lực để làm nên một sự chuyển hóa
không? Có phải tốt hơn là làm cho những giáo huấn không quá thuận tiện dễ
dàng: (nghĩa là) quý vị phải chi trả cho mọi thứ? Hãy cất giữ chúng kín đáo và
bí mật trong một vài thư viện nào đấy và quý vị không thể ghé mắt đến một cách
dễ dàng? Ô, quý vị có thể tranh cải về điều ấy, một cách chắc chắn.
Nhưng, nói một cách khác, nếu những giáo huấn thuận tiện sẳn sàng, miễn phí, và
dễ dàng tiếp xúc khắp mọi nơi, quý vị vẫn phải đặt trọng tâm cho sự thực hành
một cách cần mẫn và phải thật sự có thời gian để đọc những giáo huấn, để nghiên
cứu chúng, và để thực hành xuyên suốt qua chúng, v.v… Và, khi có những trung
tâm tu học và không có những giáo thọ tại những trung tâm ấy…như trong trường
hợp nhiều nơi trên thế giới vẫn đang gặp phải…thế thì tốt hơn là dành toàn bộ
thời gian với nhau để trì tụng và rung linh cùng lắc trống, nó có thể lợi
lạc…quý vị có thể làm phần ấy vào bất cứ thời gian nào quý vị thấy tiện lợi,
đấy không phải là vấn đề…nhưng có thể là thú vị tinh tế hơn nếu mọi người đọc
những giáo huấn trước rồi đến và thảo luận về chúng, cố gắng để hiểu.
Tranh luận phản bác với nhau, “‘Anh, chị hay em’ đã hiểu gì về điều này?”
Do vậy,
bất chấp bao nhiêu tiện lợi mà chúng ta có trong thế giới hiện đại ngày nay,
trong những hình thức tiếp xúc tiếp xúc dễ dàng hơn đối với những giáo huấn,
tuy thế, chúng ta sẽ vẫn phải đặt trọng tâm vào việc thực hành tinh tấn để thấu
hiểu chúng và tiếp thu chúng. Và, không có một cách nào rẻ mạt chung
quanh những vấn đề này, [có nghĩa là không có sự thờ ơ hờ hửng không chân thành
nào có thể đưa đến kết quả tốt đẹp.] Vì vậy trong sự tôn trọng này, không
có gì đặc biệt về chúng ta, trong sự thực hành ở xã hội phương Tây. Thế
nên, chúng ta cần tận dụng sự thuận lợi, sau đó, với những cơ hội mà chúng ta
có. Và, vâng, như chúng tôi nói, hãy là một người tử tế ân cần.
Nhưng đấy mới là sự bắt đầu. Đấy chỉ là căn bản. Nếu chúng ta thật
sự muốn thực hành Giáo Pháp, con đường của Phật giáo, trên con đường rèn
luyện tâm thức chính mình, có nghĩa là hành động tiến tới sự giải thoát và giác
ngộ. Do thế, chúng ta cần hiểu nó là gì và phát triển những thái độ, quan
điểm và động cơ thích đáng để đạt đến, và phải trở nên tin chắc rằng điều ấy là
thực sự có thể đạt được.
Vậy
thì, quý vị có những câu hỏi nào?
12- THÔNG HIỂU
TÍNH BẢN NHIÊN CỦA
TÂM THỨC, GIẢI THOÁT VÀ GIÁC NGỘ
HỎI:
Những câu hỏi quan tâm đến việc làm thế nào chúng ta chúng ta trở nên có lòng
tin chắc chắn về sự khả dĩ rằng chúng ta có thể thật sự đạt đến
giải thoát và giác ngộ?
ĐÁP:
Điều này phải hỏi đến sự hiểu biết: Chúng ta hiểu về ý nghĩa “tâm thức,” sự
tương tục của tinh thần, mà đấy là sự liên tục về hành hoạt của tâm linh.
Chúng tôi sẽ không đi vào giảng giải chi tiết ở đây, nhưng những đặc tính căn
bản của hành hoạt tâm linh là gì? Nó tiến triển, từng khoảnh khắc này đến
khoảnh khắc kia qua khoảnh khắc nọ, với một đối tượng khác nhau của từng khoảnh
khắc; nhưng tuy thế, định nghĩa thật sự về những đặc tính là giống nhau.
Và nó là sự bối rối, không tỉnh thức, giận dữ, và v.v…, có phải chúng là một bộ
phận của tính bản nhiên căn bản ấy của hành hoạt tâm linh ấy, hay có phải nó là
điều gì đấy mà được gọi là “thoáng qua, [lướt nhanh hay phù du,]”…trong một
ngôn ngữ khác giống như một đám mây…và có thể di chuyển nó đi, [xua tan nó
đi, hay quét sạch nó đi]? Vì thế, nó thật sự yêu cầu một sự thông
hiểu về tính bản nhiên của hành hoạt tinh thần – hay tâm thức.
Và điều
này đòi hỏi không chỉ một sự nghiên cứu sâu sắc về tình bản nhiên của tâm
thức: những tướng mạo của nó là gì, những tướng mạo sinh khởi như thế
nào, tất cả những loại này; nhưng cũng là một số kinh nghiệm nào đấy về sự cố
gắng thật sự quán sát điều gì đang thật sự tiếp diễn, và để nhận ra những gì
đang diễn tiến trong kinh nghiệm sống hàng ngày của chúng ta, trong từng khoảnh
khắc của đời sống hằng ngày. Cũng thế, chúng tôi nghĩ điều quan trọng là
phạm vi của loại nghiên cứu và thực hành này, là điều để thông hiểu ý nghĩa
thật sự được giải thoát là gì, và ý nghĩa thật sự của giác ngộ là gì.
Những phẩm chất của nó là gì? Nếu nó chỉ là một chữ, thế thì điều ấy quá
mơ hồ.
Vì thế,
chúng ta cần học hỏi thật sự, chúng ta muốn nói gì về giải thoát? Chúng
ta hiểu gì về giác ngộ? Và, đừng nghĩ nó là dễ dàng. Những điểm rất
là, rất là tinh tế. Do vậy, vào lúc đầu, dĩ nhiên là thế, chúng ta đề ra
điều gọi là “lợi ích của sự nghi ngờ.” “Tôi không thật sự biết, nhưng tôi
cho rằng nó là khả dĩ,” và nghiên cứu xa hơn, và thiền tập sâu hơn, bởi vì “tôi
thật sự sẽ thích trở nên tin chắc với điều này. Tôi sẽ đón nhận nó một cách
nghiêm chỉnh và tôi sẽ…từng khoảnh khắc…chấp nhận nó. Nhưng tôi muốn tiến
sâu hơn. Bởi vì, thậm chí nếu điều ấy không thể, và tôi không thật sự
hiểu hiểu nó, nhưng đi theo hướng ấy, có lẽ giống như một ý tưởng
tốt. Đấy, một cách chắc chắn, từ một kinh nghiệm nhỏ tôi có và từ việc
nhìn thấy những người đã từng theo phương hướng ấy, họ chắc chắn có ít rắc rối
hơn và đối diện với đời sống tốt đẹp hơn. Do vậy, căn cứ trên điều ấy,
thậm chí nếu không thể [hoàn toàn], thì việc hướng về con đường ấy, đi xa nhất
trong khả năng là điều quá tuyệt.
Đấy là
một căn bản hành động tốt để bắt đầu. Và, như một trong những người bạn
đạo của tôi đã nói một cách rất dễ thương, “Tôi không biết có thể đạt đến giải
thoát hay giác ngộ không. Và tôi không biết là Đức Đạt Lai Lạt Ma thật sự
là một chúng sinh giải thoát hay một chúng sinh giác ngộ. Nhưng nếu tôi
có thể trở nên giống như người…giống như Đức Đạt Lai Lạt Ma và có thể đối phó
với tối đa những khó khắn như Ngài đang đối diện, như có cả một quốc gia của hàng
tỉ người Hán chống lại Ngài, và những vấn nạn và những vụ việc không thể tin
tưởng nổi mà Ngài đối đầu, nếu tôi có thể trở thành một người giống như thế, và
đối phó với những thứ như vậy, giống như Ngài đối diện, như thế cũng quá đủ.”
13- LỰA CHỌN MỘT VỊ ĐẠO SƯ TÂM
LINH [15]
Điều
này là tại sao nói rằng, đối với chúng ta, rất khó khăn để liên hệ một cách
trực tiếp đến những vị Phật. Ý chúng tôi là, những phẩm chất của các Ngài
là ngoài sự tưởng tượng của chúng ta. Nhưng, chúng ta có thể liên hệ qua
vị đạo sư, vị giáo thọ hay vị thầy tâm linh. Đấy không có nghĩa là bất cứ
vị đạo sư tâm linh nào – không chỉ là một vị lạt ma nào đấy người đã hoàn
tất một khóa tu ba năm rồi đến và giảng dạy tại một trung tâm. Chúng ta
nói về những gì vĩ đại nhất trong những thứ vĩ đại. Đấy là thí dụ mà
chúng ta muốn nhìn vào, trong hình thức làm thế nào để liên hệ đến giải thoát
và giác ngộ. Cho dù họ được giải thoát hay không, chúng tôi nói về
ai? Nhưng ở đây có ai đấy thật sự có những phẩm chất nổi bật. Thế
thì điều này cho chúng ta một điều gì đấy có giá trị lớn … đối với một thí dụ
thực tiển.
Chúng
tôi không có ý nói là tất cả những lạt ma, những người đã hoàn thành khóa tu ba
năm và đến phương Tây là không đủ phẩm chất và không đủ năng lực gia trì
– Chúng tôi không có ý đó. Nhưng thường chúng ta có thể hoàn toàn thất
vọng với sự hướng dẫn của họ, với cung cách họ đối phó với những hoàn
cảnh. Cho nên, tốt nhất là hãy nhìn vào một thí dụ nổi bật thật sự:
vì thế vị lạt ma nổi bật nhất trong những đại lạt ma, vì chúng ta có một số
thâm nhập nào đối với họ, chúng ta có thể đến với sự giảng dạy của họ.
Những sự giảng dạy của họ sẳn sàng trên mạng lưới điện toán và v.v…Giống như
với ai đấy đã nhận bằng geshe (tiến sĩ Phật học Tây Tạng). Hay ngay cả ai
đấy là một vị hóa thân (tulku)…một vị lạt ma tái sinh…một vị rinpoche (sư
trưởng). Điều ấy không có nghĩa là họ có những phẩm chất cao nhất.
Do thế, trong giáo huấn luôn luôn nói rằng, “Thử nghiệm vị thầy trong một thời
gian dài.” Điều ấy là quan trọng.
Có một
điểm khác về sự thực hành Giáo Pháp ở phương Tây…điểm cuối cùng, bởi vì chúng
ta cần kết thúc…là thường có đủ loại lạt ma, và hóa thân, và geshe, và kenpo,
và bất cứ điều gì, đến qua thành phố chúng ta, một số thành phố nào đấy hơn
những thành phố kia. Và thậm chí họ ban những lễ truyền pháp. Và
chúng ta chưa bao giờ nghe về con người này; chúng ta không biết bất cứ về
họ. Và tuy thế, có sự kiện này đang xãy ra; và nhiều người trong chúng ta
đi đến do bởi những người khác đang đi đến, hay do bởi dường như vì thế chúng
ta nên đi đến [để xem nghe]. Điều đó thật sự không chính đáng.
Một
điều giống như thế với quá nhiều điều thuận tiện trên mạng lưới điện
toán. Chính bởi vì điều gì ấy thuận tiện sẳn sàng, giống như ai đấy đến
thành phố chúng ta và ban lễ truyền pháp, hay chính bởi vì nó ở trên mạng lưới
điện toán, hay chỉ bởi vì có mà một quyển sách mà chúng ta có thể mua, không có
nghĩa rằng điều ấy là đáng tin cậy. Chúng ta phải kiểm nghiệm lại.
Tìm hiểu “Vị lạt ma ấy là ai.” Hỏi. Lần thứ nhất…nó giống như thế,
giống như nhìn điều gì ấy trên mạng lưới điện toán hay một quyển sách.
Chúng ta có thể đọc nó. Chúng ta có thể đi đến một lễ truyền pháp.
Điều ấy không có nghĩa rằng chúng ta thật sự tiếp nhận được lễ truyền pháp và
chấp nhận một cách nghiêm chỉnh người này như vị đạo sư mật thừa tantric của
chúng ta. Điều đó là những gì rất khác biệt. Chúng ta muốn đi đến
tham dự, kiểm soát lại. Điều ấy tốt. Chúng ta đọc điều gì đấy trên
mạng lưới điện toán - ồ, điều đó có phải là rác rưởi không? Điều này có
đáng tin cậy không? Ai viết nên nó? Nếu nó là rác rưởi – chúng ta lãng
quên nó. Cũng giống như thế. Chúng ta sẽ tìm một vị lạt ma, người
có phẩm chất hơn, ai đấy kém phẩm chất hơn. Ngay cả những người có đủ phẩm
chất, có thể không thích hợp với chúng ta, [không cộng hưởng hay hòa điệu tâm
linh với chúng ta]. Chúng ta không cảm thấy bất cứ một sự liên kết nào
với họ. Hãy kiểm nghiệm điều ấy. Chỉ bởi vì ai đấy có một ít, hay
chỉ bởi vì ai đấy biết trình bày một nghi thức truyền pháp, điều đó không đủ,
như một trình độ hay năng lực chuyên môn, để là một vị thầy tantric của chúng
ta.
Vì thế,
thay vì là nói rằng ở phương Tây vấn đề đặc biệt mà chúng ta có là không có quá
nhiều thuận lợi, tôi nghĩ rằng đúng hơn là trái lại. Vấn đề là có quá
nhiều thuận lợi. Và làm thế nào chúng ta phân biệt khi chúng ta
có…điều này tôi nghĩ là kinh khủng…đó là có hàng trăm nhãn hiệu Phật giáo khác
nhau? Bởi vì mỗi vị lạt ma đến và khai trương một trung tâm của chính họ
và có ba trăm người như họ sẳn sàng…hoặc là trên mạng lưới điện toán, hay bất
cứ nơi nào…làm thế nào chúng ta chọn lựa? Đây là một vấn đề lớn.
Điều này khác với những gì có trong quá khứ. Chúng tôi không có
phép thuật giải đáp cho câu hỏi đó. Chỉ bởi vì điều gì hiện lên như đệ
nhất hạng (number one) trên Google khi chúng ta tìm kiếm, không có nghĩa điều
đó là tốt nhất. Thế nên, chúng ta phải sử dụng đến óc thông minh của
chúng ta, sự phân biệt của chúng ta, để kiểm nghiệm lại nó và hãy kiên nhẫn, và
không nên hấp tấp vội vả trong việc quyết định rằng “Điều này là cho tôi – điều
này là tốt nhất.”
Và bây
giờ hãy chấm dứt với lời hồi hướng.
Chúng
ta suy tư: “Bất cứ điều thông hiểu gì, bất cứ năng lực tích cực nào đến
từ điều này, nguyện cho điều này tiến sâu hơn và sâu hơn, và hoạt động như một
nguyên nhân để đạt được sự giác ngộ vì lợi ích cho tất cả.”
Phụ
giải:
[1]
Mental continuum: dòng suối liên tục của hành vi tinh thần (tâm thức,
tỉnh thức) của một chúng sinh, là điều không có sự khởi đầu, điều tiếp tục ngay
cả trong Phật quả và theo Đại thừa, không có chấm dứt. Theo Tiểu thừa, nó
chấm dứt khi một vị A la hán hay một vị Phật thị tịch vào cuối của cuộc đời mà
một cá nhân đạt đến giải thoát hay giác ngộ. Cũng gọi là một ‘dòng
suối tâm – mind stream.’
[2] Một
sự rèn luyện tâm thức trong điều mà một người tịnh hóa những thái độ phiền não
khỏi mình và rèn luyện để thay thế chúng với những thái độ xây dựng. Cũng
gọi là: những thái độ thanh tịnh, tu tâm, Lojong.
[3]
Geshe: 1- Trong truyền thống Kadam, một danh hiệu đặt cho một vị giáo thọ và
thiện tri thức, đặc biệt những ai là đạo sư của rèn luyện thái độ [tu tâm]
lojong. 2- Trong truyền thống Gelugpa, một danh hiệu đặt cho những ai đã
hoàn tất chương trình học vấn của tu viện. Tiến sĩ Phật học: theo thứ tự từ
thấp lên cao của bằng Geshe: Dorampa, Lingtse, Tsorampa và Lharampa, Lharampa là cao nhất
[4]
Perseverance: kiên trì , 1- trong PG Theravada, nhân tố tinh thần để sử
dụng nổ lực, liên tục và can đảm, để hổ trợ kẻ khác và để có thể thuận tiện cho
việc giúp đở. 2- PG Bắc Tông khi phối hợp với khuynh hướng của tâm giác
ngộ (bodhicitta), nó trở thành nhẫn nhục ba la mật. Còn gọi là hoan hỉ
nhẫn – Joyful perseverance.
[5]
Dharma: Giáo Pháp hay Pháp – 1- Phương sách ngăn ngừa mà nếu chúng ta đặt để
vào trong sự thực hành hay đạt đến, sẽ ngăn ngừa sự trải qua khổ đau trong
tương lai. 2- Lời dạy của Phật. 3- Bất cứ một hiện tượng nào hay một ‘vật –
thing’.
[6]
Puja: cúng dường – Từ Bắc Phạn dùng để chỉ “nghi lễ.” Từ căn bản, từ này
có nghĩa là điệu bộ thờ phượng hay tôn kính bằng cách đưa hai tay lên, hai lòng
bàn tay chấp lại với nhau, độ cao của đôi tay chỉ mức độ cung kính. Tuy
nhiên, từ này trở thành một từ chung trong nghi lễ Phật giáo, trong một phạm vi
thực tập rộng lớn. Mỗi xứ và mỗi truyền thống đều có nghi lễ riêng của
họ.
[7]
Responsibility: trách nhiệm – responsiveness: tính tự nhiên ảnh hưởng tỉnh thức
trong sạch (rigpa) – tên là thế, đấy là sự đáp ứng đến những người khác một
cách nổ lực và đồng thời với sự giao tiếp từ bi.
[8] Bodhisattva vows: một số điều để
ngăn ngừa khỏi những hành động nào đấy (mười tám nguyện căn bản và bốn
mươi sáu nguyện phụ), nếu phạm phải sẽ bất lợi cho việc đạt đến giác ngộ và
việc làm lợi ích cho kẻ khác.
[9] Budha-nature: Phật
tính – đặc trưng địa vị Phật, đặc trưng gia đình Phật. Một nhân tố có thể
quy trên tâm thức tác nhiễm của một chúng sinh giới hạn mà nó chuyển hóa thành
giác ngộ hay cho phép đạt đến giác ngộ.
[10] Regret: sám
hối – sự tỉnh thức bổ xung (nhân tố tinh thần) nguyện ước không lập lại điều gì
đấy, hoặc chính đáng hoặc không chính đáng, những việc mà một người làm hay ai
đấy làm một người nào đó phải làm.
[11] Sự thực hành bảy
phần hay bảy chi: tương tự Mười Nguyện Phổ Hiền, nhưng ở đây chỉ có bảy
điều.
[12] Equanimity:
bình đẳng – (1) nhân tố tinh thần (sự tỉnh thức phụ) có một thái độ bình
đẳng đối với mọi người. (2) Trong PG Theravada, khi phối hợp với khuynh
hướng tâm giác ngộ (bodhicitta), ba la mật thứ mười – thái độ mà một người
không tính toán trong [sự mong muốn được] đền đáp trở lại đối với sự giúp đở
của mình, thể hiện sự dửng dưng đối với vui và khổ, và đến bất cứ lợi ích hay
tổn hại nào mà mình có thể nhận lãnh.
[13] Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ.
[14] Tám Đề Mục Luyện Tâm.
[15] Spiritual Teacher: một thuật ngữ thông dụng cho bốn
cấp độ của những vị thầy Phật giáo: 1- Giáo sư Phật học (Buddhism
professor). 2- Giáo thọ giáo lý (Dharma instructor), 3- Giáo thọ hướng dẫn
thiền tập hay nghi lễ (meditation trainer hay ritual trainer), 4- Đạo sư tâm
linh (spiritual mentor).
Daily Life and Practice of Western Buddhists
unedited transcript
Riga, Latvia, July 2008
Tuệ
Uyển chuyển ngữ
04-02-2010
|
|
|
|
||
No comments:
Post a Comment