Chúng tôi vui mừng
biết rằng Hội Nghị Quốc Tế Sakyadhita về Đạo Phật và Phụ Nữ được tổ chức tại
Đài Loan và được phát biểu bởi một tầng lớp rộng rãi những diễn giả từ thế
giới Phật Giáo. Chúng tôi tin tưởng vững chắc rằng, những người Phật tử chúng
ta có một đóng góp nổi bật để làm lợi ích cho nhân loại theo truyền thống và
triết lý đạo Phật.
Chúng tôi thật phấn khích để biết rằng những bước thực tiễn đang
được tiến hành để đào tạo những nữ giáo viên Phật Giáo, phát triển triển vọng
giáo dục cho phụ nữ và để tạo mạng lưới truyền thông trong tầng lớp phụ nữ Phật
Giáo, thuộc bất cứ truyền thống nào. Trong cộng đồng Phật Giáo Tây
Tạng, không giống trong quá khứ, chúng tôi đã giới thiệu những
chương trình học vấn nghiêm chỉnh về triết lý Đạo Phật trong một số nữ tụ
viện ở Ấn Độ từ hơn hai thập niên qua.
Trong chương trình này chúng tôi biết rằng nhiều người tham dự
hội nghị của quý vị có một sự quan tâm to lớn trong sự cổ vũ truyền thống Tỳ
kheo ni. Có một sự nghiên cứu thuận lợi đã được hoàn thành trên vấn đề này,
điều trong chiều hướng đã phát khởi nhiều vấn đề còn lại được giải quyết bởi
những nhà chuyên môn về Luật Tạng. Những vấn đề Luật Tạng đã và luôn
luôn là phức tạp. Nếu chúng ta nhìn lại lịch sử những cộng đồng Phật Giáo
sơ khai, rồi thì chính những câu hỏi về Luật Tạng là trung tâm cho những cuộc
bàn cãi.
Chúng tôi cảm thấy rằng việc tái lập cơ chế truyền giới Tỳ kheo
ni là rất quan trọng. Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một
cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu
tập. Chúng tôi có một nghĩa vụ nâng đở ủng hộ quan điểm này.
Bây giờ, làm thế nào để tái lập cơ chế truyền giới Tỳ kheo ni
được hoàn thành, đây là một vấn đề cho cộng đồng Tăng già quyết
định. Không một cá nhân nào có một quyền hành nào để phán quyết vấn đề
này. Một số người bạn và đồng đạo đã từng khuyến khích rằng với tư cách
một Dalai Lama chúng tôi có thể ban hành một giáo chỉ hay đề khởi một
quyết định, nhưng đây không là một vấn đề của một cá nhân nào, bất cứ ai ông
hay bà nào có thể quyết định. Đây là vấn đề của cộng đồng Tăng già.
Thật là hữu ích nếu vấn đề này được bàn luận tại một hội nghị
quốc tế của Tăng già. Những đại biểu của tất cả những truyền thống Luật
Tạng chính yếu nên hiện diện. Vấn đề nên được giải quyết trên căn bản nghiên
cứu và thảo luận hoàn hảo cẩn thận. Nếu chúng ta có thể tập họp một số
những học giả chân thành cũng như những hành giả đức độ, những người có những
tư tưởng phóng khoáng cởi mở và được tôn kính, để thảo luận vấn đề này một cách
cẩn thận, chúng tôi tin tưởng rằng chúng ta có thê đạt đến một kết quả tích
cực.
Chúng tôi gởi lời chào mừng đến tất cả những thành viên tham dự,
cũng như sự cầu nguyện chân thành của tôi rằng hội nghị của quý vị có thể thành
công trong việc đưa ra những phương thức thực tiễn để hổ trợ phụ nữ những người
tìm kiếm sự an bình nội tại và qua nền hòa bình to lớn hơn trên thế giới.
July 10, 2002
Sakyadhita
International Conference on Buddhist Women in Taiwan
http://dalailama.com/page.103.htm
Tuệ Uyển chuyển ngữ
24-02-2009
http://dalailama.com/page.103.htm
Tuệ Uyển chuyển ngữ
24-02-2009
NỮ NHÂN VÀ PHẬT GIÁO ?
Thỉnh thoảng một vài cá nhân, nhìn vội vả qua
một tôn giáo và vẻ ra một sự kết luận bởi một định kiến và phán đoán sai lầm
hay thiếu hiểu biết. Bất kỳ nam hay nữ, nhân loại hay côn trùng, tất cả chúng
ta đều bình đẳng ở bản chất cố hữu về tự tánh để trở thành một vị Phật.
Tuy vậy tuỳ thuộc vào nơi chúng ta sinh ra nơi nào, người nào mà
chúng ta được sinh ra, những cá nhân có những thuận lợi hay trở ngại (?).
Ngày nay, trong nhiều xứ sở, nữ giới có những trở ngại trong xã
hội. Vì vậy trong một số lời dạy, Đức Phật đề cập rằng nữ giới đã gặp phải
những chướng ngại như vậy và tái sinh làm một người nữ sẽ gặp những điều không
thuận lợi trong việc thực hành Phật pháp. Nhưng điều này không có nghĩa là nó
đúng hay mâu thuẩn với việc nữ nhân có thể giác ngộ và trở thành lãnh tụ tôn
giáo.
Đức Phật đã cho phép nữ nhân được thọ giới tỳ kheo ny (một tu sĩ
Phật giáo thực thụ) hai mươi lăm thế kỷ trước, mặc dù Ngài đã cảnh báo rằng nữ
giới sẽ tiếp tục gặp những chướng ngại trong xã hội. ( 25 thế kỷ sau thì vẫn
chưa một tôn giáo nào ngoài Phật giáo và Phật Tổ Thích Ca đã đặt nữ tu vào vị
trí đáng tự hào như vậy ! )
Khi Di mẫu Ma ha Ba Xà Ba Đề ( nữ tỳ kheo đầu tiên) sắp viên
tịch, Đức Phật nói rằng, "hãy chỉ cho ai đấy nghi ngờ rằng nữ nhân có thể
giác ngộ được sự thật". Và bà đã thi triển thần thông trên hư không, chứng
minh sự giác ngộ của mình, đã làm các vị Nam trưởng lão kinh ngạc. Đức Phật
thường giải thích cho những bậc cha mẹ về ý nghĩa, giá trị của những người con
gái và rằng quan niệm của họ đã không đúng đắn.
Tổ sư Liên Hoa Sinh, người mang đạo Phật đến Tây tạng đã nói rõ
ràng với Quốc vương rằng, một người con gái có thể có năng khiếu hơn trong việc
thực tập Phật hơn là người con trai. Người đệ tử tuyệt vời nhất của Tổ Liên Hoa
Sinh là một người nữ, Lady Yeshe Tsogyal.
Nhiều vị giáo thọ nữ đã đóng vai trò trụ cột trong Phật giáo Tây
tạng và trở thành những vị nữ tổ sư như Niguma và Machig Lhadron, đã tạo ra
những truyền thống vẫn lưu truyền đến ngày naY.
Trong kinh Pháp hoa có một ví dụ về hình ảnh của Tiểu Long Nữ,
đã chứng tỏ mình có thể trở nên một bậc giác ngộ ngay lập tức trước sự sửng sốt
của cả Pháp hội.
Bồ tát Tara chắc chắn là một ví dụ tuyệt hảo về quan điểm của
Phật giáo đối với những nữ hành giả.Bồ tát Tara đã chứng ngộ vào thời Đức Phật
Bất Không Thành Tựu vô lượng kiếp về trước, một nhóm tu sĩ đã gợi ý rằng,
"Bây giờ ngài có thể tái sinh thành một người nam để đạt giác ngộ hoàn
toàn để lợi lạc cho khắp mọi loài." Thay vì vậy, Bồ tát Tara đã nguyện
luôn luôn tái sinh là một người nữ để giác ngộ và lợi lạc muôn loài.
Những chướng ngại của nữ giới trong văn hoá và xã hội khi đối
diện với sinh hoạt trong Phật giáo đã không có sự ủng hộ trong những lời dạy
của Đức Phật. Điều này, một ví dụ chính có thể tìm thấy trong lích sử China.
Trong suốt thời kỳ vàng son của Phật giáo, cụ thể là triều Đường và buổi đầu
của triều Minh, nữ nhân không là một chủ đề nóng bỏng, ác liệt để tạo dấu ấn và
được đánh giá như là những đề tài phụ thuộc khác.
Một người nữ đã hoàn toàn thống trị China và duy nhất là nữ
hoàng Vũ Tắc Thiên, đã cố chứng tỏ sự đúng đắn sự cai trị của bà thông qua Phật
giáo: triết lý Nho giáo đã đặt phụ nữ lệ thuộc vào nam nhân, nhưng Phật giáo
thì không ! Và vì vậy nữ hoàng họ Vũ đã tự tuyên bố là một hoá thân của một vị
bồ tát. Minh chứng qua kinh điển Phật giáo, bà đã cố chứng tỏ sự cai trị với
những Phật giáo đồ và để họ tin rằng nữ nhân có thể cai trị China. Bà là một
nhà cai trị khôn lanh, và là một người tìm hiểu khá sâu trong giáo lý và chính
là tác giả bài khai kinh kệ:
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như lai chân thật nghĩa
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như lai chân thật nghĩa
Vũ Tắc Thiên chưa hẳn là một hành giả chân thực, nhưng bà biết
rằng chỉ có một tôn giáo ở China ủng hộ cho quyền cai trị của bà là Phật giáo.
Bà trở nên, một trong những người cai trị bị xỉ vả nhiều nhất qua nhiều thế hệ
các Nho gia. Tuy vậy hơn bao giờ hết sự cai trị của bà đã chứng tỏ sự đối lập
hoàn toàn của giáo lý nhà Phật với sự đánh giá về phụ nữ.
Tuệ Uyển trích dịch từ
trang http://www.simhas.org/qanda.html
No comments:
Post a Comment