NÓI VỚI NGƯỜI PHẬT
TỬ PHƯƠNG TÂY
His Holiness the
Dalai Lama
__
Chúng
ta quy tụ nơi đây hôm nay, một buổi nói chuyện phổ thông, bởi vì mỗi chúng ta
đang tìm kiếm một ý nghĩa sâu xa trong đời
sống. Trong vài ngày qua chúng tôi đã
nói nhiều lần rằng cùng với tiến trình vật chất, sự phát triển nội tại là quan
trọng và hữu ích. Tự quý vị có thể quán
sát thấy rằng khi những người có năng lực nội tại mạnh mẻ gặp phải những vấn nạn, họ được trang bị tốt
hơn để đối mặt với chúng. Trong trường hợp
của Tây Tạng và kinh nghiệm của chính mình, mặc dù có thể có giới hạn, chúng
tôi thấy điều này là đúng. Một số người
trong vị trí của chúng tôi, trong trường hợp phức tạp và có những trách nhiệm rộng
lớn, dưới những tình trạng như vậy, có thể trở nên có một số vấn đề tinh thần. Tuy thế, như quý vị có thể thấy trên khuôn mặt
tôi, chúng tôi không quá buồn phiền. Dĩ
nhiên, chúng tôi nhận thức những vấn đề rất to tát, thảm họa; nhưng chúng tôi
chấp nhận chúng như những sự thật và cố gắng làm những gì tuyệt nhất có thể. Không nghi ngờ gì nữa một thái độ của sức mạnh
nội tại có thể hổ trợ; nó ảnh hưởng phương cách chúng ta tiếp cận và đối diện với
những vấn đề.
Bởi
vì mỗi người ít hay nhiều có cùng tính tự nhiên, sự thực hành tôn giáo, trong
trường hợp này là Phật giáo, có những điều thâm sâu và lợi ích cho đời sống
chúng ta. Điều này không cần thiết để mang
đến một sự tái sinh tốt đẹp, và xa hơn thế; ngay cả trong đời sống này nếu
chúng ta tiếp nhận một thái độ đúng đắn đối với những con người đồng loại của
chúng ta, tự nó sẽ mang lại những sự thỏa lòng to lớn. Những nguyên tắc chính là động cơ tốt và từ
bi yêu thương.
Mặc
dù từ bi yêu thương được giải thích một cách chính yếu trong kinh điển Bồ tát đạo
– Đại thừa – nhưng tất cả những ý tưởng
Phật giáo đặt căn bản trên từ bi yêu thương.
Tất cả những lời dạy của Đức Phật có thể tuyên bố trong hai câu: - Thứ
nhất là, “Quý vị phải giúp đở những người khác.” Điều này bao gồm tất cả những lời giáo huấn của
Đại thừa. - “Nếu không, quý vị không nên
làm tổn hại kể khác.” Đây là tất cả những
lời dạy của Thanh văn thừa, hay Thượng tọa bộ.
Nó phát biểu căn cứ trên tất cả những điều giới luật (đạo đức), chính là
điều để chấm dứt tổn hại người khác. Những
lời giáo huấn của cả hai trường phái là đặt cơ sở trên tư tưởng của yêu thương,
từ bi. Một Phật tử, nếu có thể, nên giúp
đở người khác. Nếu điều này không thể, tối
thiểu đừng làm bất cứ điều gì tổn hại kẻ khác.
Khi
chúng ta thực hành, khởi đầu, như một căn bản chúng ta kiềm chế chính mình dừng
lại những hành động xấu, điều có thể tổn hại kẻ khác, một cách tối đa mà chúng
ta có thể. Điều này là để che chở hay phòng ngự (chư ác mạc tác – chớ làm những điều
ác). Sau đấy, khi chúng ta đã phát triển
những phẩm chất nào đấy, rồi thì như một mục tiêu hành động chúng ta nên giúp đở
kẻ khác (chúng thiện phụng hành – hãy làm các điều lành). Trong trình độ đầu tiên, đôi khi chúng ta cần
cô lập trong khi theo đuổi sự phát triển nội tại của chính mình; tuy nhiên, sau
khi chúng ta có một sự vững vàng nào đấy, một sức mạnh nào đấy, chúng ta phải
duy trì với sự tiếp xúc, và phục vụ xã hội trong bất cứ lĩnh vực nào – sức khỏe,
giáo dục, chính trị, hay bất cứ điều gì.
Có
một số người tự gọi chính họ là có khuynh hướng tôn giáo, cố gắng để biểu lộ điều
này bằng việc ăn mặc trong một kiểu dáng khác thường, duy trì một cách sống đặc
biệt, và cô lập chính họ với toàn thể xã hội còn lại. Điều đó là sai lầm. Kinh điển về tịnh hóa tâm linh (rèn luyện tâm
thức) nói rằng, “Chuyển hóa quan điểm nội
tại, nhưng hãy để bên ngoài của quý vị như nó là.” Điều này là quan trọng. Bởi vì mục tiêu chính của việc thực hành Đại
thừa là phụng sự người khác, chúng ta không cô lập chính mình với xã hội. Để phục
vụ, để giúp đở, để hổ trợ chúng ta phải
duy trì sự hiện diện trong xã hội.
Đây
là điểm thứ nhất. Điểm thứ hai là, đặc
biệt trong Phật giáo trong khi chúng ta thực hành chúng ta phải xử dụng cả khối óc cũng như trái tim (lý
trí và tình cảm). Về phương diện đạo đức,
chúng ta phải thực hành phẩm chất của một trái tim tốt lành và nồng ấm; cũng thế,
vì Phật giáo liên hệ rất nhiều trong lý
trí và sự hợp lý (logic) – về phía tuệ
trí – thông minh là quan trọng. Do vậy,
một sự phối hợp của tuệ trí và con tim là cần thiết. Không có kiến thức, không có sự thông tuệ hữu
dụng đầy đủ, chúng ta không thể tiếp cận
chiều sâu của giáo nghĩa đạo Phật; thật khó khăn để đạt đến trình độ cụ thể hay
phẩm chất tuệ trí toàn hảo. Cũng có thể
có những trường hợp ngoại lệ, nhưng đây là nguyên tắc thông thường.
Cần
thiết có một sự phối hợp của lắng nghe, suy nghĩ, và thiền quán (văn, tư,
tu). Khi tham dự nghe pháp, thật quan trọng
để hòa hiệp tâm thức, làm cho tâm thức quen thuộc, với điều đang được
nghe. Học hỏi về tôn giáo không giống
như học tập lịch sử. Nó phải được hòa hiệp với tiến trình tinh thần của chúng
ta; tâm thức chúng ta phải nên được tràn ngập với nó. Một kinh điển nói rằng những sự thực hành giống
như một tấm gương; những hành động của thân thể, lời nói, và tâm ý chúng ta giống
như một gương mặt được thấy trong gương; và qua sự thực tập chúng ta nên nhận
ra những lỗi lầm và từ từ loại bỏ chúng.
Khi nó được nói trong truyền khẩu,
“Nếu có đủ không gian giữa chính quý vị và sự thực hành để cho người nào
khác bước xuyên qua, thế thì quý vị không đang thực hành những giáo huấn một
cách thích đáng.” Trong trường hợp đó, sự thực hành trở thành
điều gì ấy giống như một đối tượng của sự giải trí. Và nếu nó là thế đấy, nó có thể biến thành một
đối tượng của tranh cải. Rồi thì sau một
cuộc giao thoa hữu hảo của tranh luận, nó ngay cả có thể đưa đến đấu đá. Điều này hoàn toàn không phải là mục tiêu của
tôn giáo.
Trong
khi chúng ta học hỏi về những sự thực hành, chúng ta phải liên hệ chúng với
chính thái độ của chúng ta. Có một câu
chuyện của một học giả du già Gadamba, người đang đọc Luật tạng (những nguyên tắc)
rằng không thích hợp để dùng da thú làm tọa cụ; ông ta đang ngồi trên tấm da gấu,
thế là ông lập tức rút nó ra khỏi chỗ ngồi của mình. Rồi thì khi ông đọc tiếp, ông ta học được rằng
được phép dùng những thứ như thế nếu thời tiết quá lạnh hay người ấy bệnh, và
vì vậy ông ta cẩn thận đặt nó trở lại chỗ ngồi.
Đây là một sự thực hành đúng đắn – lập tức thực hành điều gì mà mình
đang học hỏi.
Nếu
một người đang học hỏi tôn giáo ở trình độ phổ thông hay Phật giáo như một sự học
vấn bài bản chuyên môn, nó là một thực trạng khác nhau ngay từ đầu. Mục tiêu chỉ là để thu thập kiến thức của một
chủ để khác của học vấn. Tuy vậy, chúng
ta là những Phật tử, chúng ta phải thực tập, nên cố gắng thực hiện những điều
giáo huấn trong khi mình đang học hỏi. Rồi
thì chúng ta có thể kinh nghiệm giá trị thực sự của chúng.
Điểm
thứ ba chúng tôi muốn trình bày là khi chúng ta bắt đầu thực hành, chúng ta
không nên dự đoán quá nhiều. Chúng ta sống
trong thời đại của máy điện toán và tự động hóa, vì thế chúng ta có thể cảm thấy
rằng sự phát triển nội tại cũng là một thứ tự
động , một thứ mà chúng ta có thể bấm một nút và mọi thứ thay đổi. Nó không phải như vậy. Sự phát triển nội tại không dễ dàng và sẽ cần
có thời gian. Tiến trình ngoại tại, những
sứ mệnh không gian sau cùng và tiếp theo, không phải đạt đến trình độ hiện tại
trong một thời gian ngắn mà trải qua hàng thế kỷ, mỗi thế hệ làm nên một sự
phát triển xa hơn căn cứ trên những điều của thế hệ trước. Tuy nhiên, sự phát triển nội tại thật sự khó
khăn hơn vì sự trau dồi nội tại không được chuyển tiếp từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Kinh nghiệm kiếp sống quá khứ ảnh
hưởng rất nhiều đến đời sống hiện tại, và kinh nghiệm của đời sống này trở
thành căn bản cho sự tái sinh kế tiếp phát triển, nhưng việc chuyển tiếp sự phát triển nội tại từ một người
này đến một người khác là không thể được.
Chúng
tôi đã gặp nhiều người phương Tây, những người rất hào hứng về việc thực tập của
họ lúc mới bắt đầu, nhưng sau vài năm đã hoàn toàn quên lãng nó, và không có vết
tích gì về những thứ họ đã từng thực tập.
Đây là bởi vì họ đã kỳ vọng quá nhiều lúc khởi đầu. Trong tác phẩm “Dấn
thân tron những hành động của Bồ tát” của Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) nhấn
mạnh sự quan trọng của việc thực hành nhẫn nại, kiên trì, và bao dung. Sự bao dung kiên trì là một thái độ không chỉ
đối với kẻ thù của chúng ta mà cũng là một thái độ của hy hiến, của kiên quyết,
vì thế chúng ta không rơi vào sự lười biếng, giải đãi của sự ngã lòng. Chúng ta
nên thực hành nhẫn nại, hay kiên trì và bao dung, với sự quyết tâm rộng lớn. Điều này là quan trọng.
Để
chúng tôi dùng chính mình làm một thí dụ.
Chúng tôi sinh ra trong một gia đình Phật giáo trong một xứ sở mà Phật
giáo là chính yếu, mặc dù có Ki tô giáo, Hồi giáo cũng như nhiều tín đồ theo
tôn giáo cổ truyền của Tây Tạng, đạo Bon.
Chúng tôi có thể học Phật giáo từ ngôn từ mẹ đẻ và từ một tuổi rất trẻ
đã trở thành một tu sĩ. Vì thế, từ quan
điểm thực hành những lý thuyết Phật giáo, chúng tôi có nhiều khả năng hơn quý vị. Nhưng trong dạng thức của chính sự phát triển
của mình, trong khoảng mười lăm hay mười sáu tuổi chúng tôi bắt đầu thật sự có
nhiệt tình cho việc thực tập. Chúng tôi
bắt đầu thực tập từ lúc ấy cho đến bây giờ.
Nhìn lại những năm tháng ấy, chúng tôi có thể chú ý có sự cải thiện trải
qua một thời gian của hai đến ba năm.
Trong ít tuần, chúng tôi nhận biết rất ít. Vì thế, quyết
định để thực hành không đánh mất nổ lực là rất quan trọng.
Sự phát triển nội tại đến từng bước một. Chúng ta có thể nghĩ, “Hôm nay sự tính lặng nội
tại của tôi, sự an bình tinh thần của tôi, thì rất nhỏ, rất yếu,” nhưng nếu
chúng ta so sánh, chúng ta nhìn lại năm, mười, hay mười lăm năm trước, và nghĩ
“phương cách suy nghĩ của tôi lúc ấy là gì?”
“Tôi có sự yên bình nội tại bao nhiêu lúc ấy và nó là gì hôm nay?” – so
sánh nó với những gì lúc ấy, chúng ta có thể nhận thức rằng có một sự tiến triển
nào đấy, nó một giá trị nào đấy. Đây là điều mà chúng ta nên so sánh và so
sánh như thế ấy – không phải với cảm nhận hôm nay và cảm nhận hôm qua, hay tuần rồi, hay tháng rồi, ngay cả
năm rồi, nhưng năm năm rồi. Rồi thì
chúng ta có thể nhận thức rằng những gì cải thiện đã xảy ra một cách nội tại. Tiến trình đến bằng sự duy trì nổ lực liện tục
trong sự thực tập hàng ngày.
Đôi
khi người ta hỏi chúng tôi rằng Phật giáo – một nền giáo huấn cổ xưa đến từ
phương Đông – có thích hợp cho người phương Tây hay không. Câu trả lời của tôi là căn bản của tất cả các
tôn giáo để đối trị với những vấn nạn cơ bản của loài người. Khi chúng ta là con người, dù Tây hay Đông –
đen , trằng, vàng, hay đỏ - có những khổ đau của sinh đẻ, bệnh tật, tuổi tác,
và chết, tất cả là bình đẳng trong sự quan tâm ấy. Khi mà những khổ đau đó của con người vẫn hiện
diện, vì chính yếu giáo huấn được quan tâm với những khổ đau đó, không có nhiều
cho câu hỏi là nó có thích hợp hay không.
Tuy
thế, có một câu hỏi với sự quan tâm đến khuynh hướng tinh thần của mỗi cá
nhân. Cho một số cá nhân, một tôn giáo
nào đấy mang đến nhiều lợi lạc hơn trái lại trong những trường hợp khác những
tôn giáo khác lại mang đến nhiều lợi ích hơn.
Dưới những hoàn cảnh, những giáo huấn đa dạng khác nhau được thấy là cần
thiết và hữu dụng cho xã hội loài người, không nghi ngờ gì có những người tìm
thấy Phật giáo thích hợp cho những yêu cầu của họ.
Khi
nói về tính chất, không có câu hỏi về thích hợp hay không cần thiết thay đổi
căn bản của lý thuyết. Tuy thế, sự thay
đổi trên trình độ bể mặt hình thức là có thể.
Một tu sĩ Miến Điện của truyền thống Thượng tọa bộ (Theravada) mà tôi vừa
mới gặp ở Âu châu và tôi đã phát triển tôn trọng sâu sắc vị ấy, đã làm sự phân
biệt giữa di sản văn hóa và chính tôn giáo.
Tôi gọi điều này là sự khác biệt giữa tính chất của một tôn giáo và những
cấp độ nghi thức cúng kính hay lễ lạc. Ở
Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bổn hay bất cứ nơi nào, khía cạnh tôn giáo của
đạo Phật là giống nhau, nhưng di sản văn hóa là khác nhau trong mỗi quốc
gia. Do vậy, ở Ấn Độ, Phật giáo hòa hiệp
với văn hóa Ấn Độ; ở Tây Tạng, là văn hóa Tây Tạng, v.v. và v.v… Từ quan điểm này, sự hòa hiệp với nền văn
hóa Tây phương vào trong Phật giáo là điều
cũng có thể.
Bản
chất của giáo nghĩa đạo Phật là không thay đổi; bất cứ nơi nào nó đến là nó phù
hợp; tuy vây, những khía cạnh bên ngoài – những nghi thức hay lễ lược nào đấy –
là không cần thiết thích ứng cho một môi trường mới; những thứ đó sẽ thay đổi. Chúng sẽ thay đổi thế nào trong những nơi chốn
cụ thể chúng ta không thể nói. Khi Phật
giáo lần đầu tiên đến Tây Tạng từ Ấn Độ, không ai có thẩm quyền để nói, “Bây giờ
đạo Phật đã đến một vùng đất mới; từ bây giờ trở về sau chúng ta phải thực hành
trong cách này hay cách kia.” Đã không
có những quyết định như vậy. Nó tiến triển
dần dần, và trong một thời gian một truyền thống đặc thù đã khởi lên. Điều như thế có thể là trường hợp của những
người phương Tây; dần dần, trong một thời gian, có thể có sự phối hợp của Phật
giáo với nền văn hóa Tây phương. Trong
trường hợp nào đi nữa, thế hệ này – thế hệ của quý vị - những người bắt đầu ý
tưởng mới này trên những xứ sở mới có một trách nhiệm to lớn để mang bản chất
và điều phối nó trong chính môi trường của quý vị.
Vì
điều này chúng ta phải dùng bộ não để quán sát.
Quý vị không nên đi theo cực đoan nào – quá bảo thủ thì không tốt, quá
nhạy cảm thì cũng không tốt. Như trong
lý thuyết Trung đạo của chúng tôi, chúng ta nên đi theo tiến trình vừa phải. Điều rất quan trọng là giữ một sự tiếp cận
trung bình trên mọi lãnh vực. Ngay cả
trong việc tiêu thụ thực phẩm hàng ngày của chúng ta, chúng ta phải theo một
cách vừa phải. Quá nhiều trong bao tử, rắc
rối sẽ đến với chúng ta; quá ít thì không đủ.
Vì thế cho nên, trong đời sống hàng ngày – trong cung cách toàn diện của
đời sống – rất quan trọng để duy trì trong sự trung bình; cả hai cực đoan phải
được kiểm soát lại. Bộ não này phải có đầy
đủ kiến thức về môi trường và sự kế thừa văn hóa – đầy đủ kiến thức về những thứ
ấy là giá trị trong đời sống hằng ngày và những gì không hữu dụng trong cuộc sống
hàng ngày, dù nó là một phần của di sản văn hóa.
Trong
trường hợp của nền văn hóa Tây Tạng, thí dụ, những truyền thống nào đấy trong
quá khứ có thể không hữu dụng trong tương lai.
Khi dưới những hoàn cảnh mới hệ thống xã hội và cung cách suy nghĩ của
xã hội thay đổi, những phương diện nào đấy có thể không hữu dụng nữa. Cũng giống như thế, nếu ở Hoa Kỳ và Gia Nã Đại
có một số khía cạnh văn hóa cũ kỷ không hữu ích trong đời sống hàng ngày của thời
đại, chúng nên được loại bỏ, và những phương diện khác vẫn có ý nghĩa đầy đủ và
hữu dụng nên được duy trì. Quý vị nên phối
hợp nền văn hóa ấy với Phật giáo.
Nếu
chúng ta thực sự hấp dẫn với Phật giáo, thế thì điều quan trọng nhất là sự tứng
dụng – thực hành. Học hỏi đạo Phật và rồi
thì dùng nó như một vũ khỉ nhằm mục tiêu phê phán những triết lý hay ý tưởng
khác là sai. Mục tiêu chính của tôn giáo
là để chế phục chính mình, không phải để phê phán kẻ khác. Tốt hơn chúng ta nên bình phẩm chính
mình. Tôi đã làm được bao nhiêu với sự
giận tức của tôi? Với sự vướng mắc của tôi, với sự thù hận của tôi, với sự kiêu
kỳ của tôi, sự ghen tỵ của tôi? Đây là
những thứ mà chúng ta phải kiểm soát lại trong đời sống hằng ngày với kiến thức
của giáo nghĩa đạo Phật. Rõ chứ?
Như
những Phật tử, trong khi thực hành những giáo huấn của mình, chúng ta phải tôn
trọng những tín ngưỡng khác, Do Thái
giáo, Ki Tô giáo, v.v.và v.v… Chúng ta phải nhận thức và cảm niệm sự cống hiến
của những tôn giáo ây qua nhiều thế kỷ quá khứ đến xã hội loài người. và vào
lúc này chúng ta phải cố gắng để làm một nổ lực công cộng để phục vụ con người. Sự tiếp nhận một thái độ đúng đắn đối với những
tín ngưỡng khác là quan trọng một cách đặc biệt cho những người Phật tử mới duy
trì trong tâm tư của mình.
Cũng
trong những người Phật tử, có nhiều trường phái khác nhau, nhiều hệ thống khác
nhau để thực hành, chúng ta không nên nghĩ rằng trường phái này là tốt hơn, trường
phái đó là tệ hơn, v.v. và v.v…Cảm giác
và bình phẩm môn phái về những nền giáo lý khác hay những giáo phái khác nhau
là rất xấu, là độc tố, và nên tránh.
Điều
quan trọng nhất là sự thực tập trong đời sống hàng ngày; rồi thì quý vị từ từ sẽ
biết giá trị thực sự của tôn giáo. Giáo
lý không có nghĩa đơn thuần là kiến thức mà để cho sự cải thiện tâm thức chúng
ta. Để làm điều ấy, nó phải là một phần
của đời sống hàng ngày của chúng ta. Nếu
đặt giáo thuyết vào một tòa nhà và khi quý vị rời tòa nhà sao lãng việc thực tập,
quý vị không thể đón nhận giá trị của nó.
Chúng
tôi hy vọng rằng sự dấn thân vào trong việc thực tập của quý vị với một trái
tim tốt lành và tự một động cơ cống hiến điều gì đấy tốt đẹp đến xã hội phương
Tây. Đấy là sự cầu nguyện và ước muốn của
chúng tôi.
__
1- HỎI: Vai trò
gì của vị thầy trong sự thực hành? Có cần
thiết để có một vị thầy không?
ĐÁP: Vâng, nhưng nó tùy thuộc trên chủ đề. Những chủ đề thông thường, những khái niệm Phật
giáo phổ thông, có thể tự học qua sách vở.
Nhưng với những chủ đề phức tạp nào đấy là khó khăn để hiểu nếu chỉ đọc
sách mà không có một người từng trải chỉ dẫn và giải thích.
2- HỎI: Một người,
đặc biệt ở phương Tây, phải có nền tảng của sự khiêm tốn, chân thực và một đời
sống đạo đức. Một khi người ấy có nền tảng
này, những gì khác mà Ngài khuyến nghị người ấy trau dồi trong đời sống của họ.
nếu có một nền tảng đạo đức, luân lý, và khiêm tốn?
ĐÁP: Việc làm kế tiếp là trau dồi sự vững vàng của
tinh thần. Đạo đức là một phương pháp để
chế phục chính mình – Nó là một hành động bảo vệ. Kẻ thù thực sự của chúng ta, quý vị thấy, là
trong chính chúng ta. Những cảm xúc ưu
phiền đau khổ (kiêu kỳ, sân hận, ganh tị) là những kẻ thù thực sự của chúng
ta. Đây là những kẻ tạo rắc rối, và
chúng được tìm thấy trong chính chúng ta.
Sự thực tập thật sự của tôn giáo rốt lại là sự đấu tranh chống lại những
kẻ thù nội tại này.
Như
bất cứ một cuộc chiến tranh nào, trước nhất chúng ta phải có một hành động tự vệ,
và trong cuộc chiến đấu tâm linh chống lại những cảm xúc tiêu cực, đạo đức là sự
tự vệ của chúng ta. Nhận thức rằng ngay
lúc đầu chúng ta không được chuẩn bị đầy
đủ cho sự công kích, chúng ta trước phải dùng đến hành động phòng vệ và đó
nghĩa là đạo đức. Nhưng một khi chúng ta
đã chuẩn bị sự phòng vệ, đã trở nên gọi là quen thuộc với đạo đức, rồi thì
chúng ta mới dấn thân vào việc tấn công.
Ở đây vũ khí chính của chúng ta là tuệ trí. Vũ khí tuệ trí này giống như một viên đạn,
hay có thể là một tên lữa, và người phóng hỏa tiễn thì tinh thần vững vàng hay
bình lặng định tĩnh. Tóm lại, một khi
chúng ta có một căn bản trong luân lý
hay đạo đức, bước tiếp theo là rèn luyện
trong tinh thần vững vàng định tĩnh và cuối cùng là tuệ trí.
3- HỎI:
Ngài
có thể vui lòng cho chúng tôi một lời dạy bảo ngắn gọn là điều mà chúng tôi có
thể mang theo chúng tôi trong đời sống hằng
ngày chứ?
ĐÁP: Chúng tôi không biết. Chúng
tôi thật không có gì nhiều để nói. Chúng
tôi sẽ đơn giản nói điều này. Tất cả
chúng ta là những con người, và từ quan điểm này chúng ta là giống nhau. Tất cả chúng ta muốn hạnh phúc vui tươi và
chúng ta không muốn buồn rầu đau khổ. Nếu
chúng ta quan tâm đến điều này, chúng ta sẽ thấy rằng không có sự khác nhau giữa
những con người khác tín ngưỡng, chủng tộc, màu da, hay văn hóa. Tất cả chúng ta có một nguyện ước thông thường
này cho hạnh phúc an lạc.
Thật
sự, tất cả những Phật tử chúng ta là phải cứu hộ tất cả chúng sinh, nhưng thực
tế trong lời nói, điều này có thể quá to rộng, một sự ý tưởng cho hầu hết mọi
người. Trong mọi trường hợp, chúng ta tối
thiểu nghĩ trong những điều kiện của sự giúp đở tất cả chúng sinh. Điều này rất quan trọng. Ngay cả nếu chúng ta không thê nghĩ trong
hình thức của tất cả chúng sinh sống trong những thế giới khác nhau, tuy nhiên
chúng ta nên nghĩ trong giới hạn của nhân loại trên hành tinh này. Làm điều này là đem một sự tiếp cận thực tế đến
vấn đề. Cần thiết phải giúp đở kẻ khác,
không chỉ trong sự cầu nguyện, mà trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Nếu chúng ta thấy rằng chúng ta không thể
giúp đở kẻ khác, tối thiểu chúng ta có thể làm là chừa bỏ việc làm tổn hại họ.
Trên
một trình độ rất thực tiễn, những thái độ như thế là những thứ mà chúng ta cần. Cho dù chúng ta là một người tin tưởng ở tôn
giáo,hay không là một vấn đề khác. Đơn
giản như một cư dân của thế giới, như thành viên của gia đình nhân loại, chúng
ta cần loại thái độ này. Qua một thái độ
như thế nền thanh bình và hòa hiệp lâu dài của thế giới có thể đạt đến được. Qua hòa hiệp, thân hữu, và tôn trọng lẫn
nhau, chúng ta có thể vượt thắng nhiều vấn nạn trong một con đường đúng đắn, mà
không có khó khăn.
Đây
là điều mà chúng tôi tin tưởng, và bất cứ nơi nào chúng tôi đi đến, cho dù đó
là một quôc gia cộng sản như Liên bang Sô Viết hay Mongolia, hay đến một xứ sở
tư bản và dân chủ như Hoa Kỳ và những nước Tây Âu, chúng tôi tuyên bố cùng một
thông điệp. Đây là sự gợi ý và khuyến
nghị của tôi. Nó là điều tôi cảm nhận. Chính tôi thực hành điều này tối đa mà tôi có
thể. Nếu quý vị cảm thấy đồng ý với tôi,
và quý vị tìm thấy giá trị nào đấy trong điều tôi vừa nói, thế thì nó đã xứng
đáng.
Quý
vị thấy, đôi khi những người tôn giáo, những người thể hiện chân thành trong sự
thực hành tôn giáo, rút lui khỏi phạm vi hoạt động của nhân loại. Trong quan kiến của tôi, điều này không tốt. Nó không đúng. Chúng ta hạn chế điều này, nhưng chúng ta nên
truyền lực cho điều này. Bởi vì trong những
trường hợp nào đấy, một người ước nguyện một cách chân thành để dấn thân trong
một khuynh hướng thiền quán thế thì cũng đúng đắn thôi để tìm sự cô lập cho một
thời gian giới hạn nào đấy. Nhưng những
trường hợp như thế vượt xa ngoại lệ, và
đại đa số chúng ta phải thể hiện một sự thực tập chân thành trong hoàn cảnh của
xã hội loài người.
Trong
Phật giáo, cả học hỏi và thực tập là cực kỳ quan trọng và chúng phải đi liền với
nhau. Không có kiến thức, chỉ dựa trên
tín ngưỡng, tin tưởng và tin tưởng hơn là tốt nhưng không đủ. Vì thế, phần vận dụng lý trí phải được hiện
diện một cách xác định. Cùng lúc, sự
phát triển trí óc nghiêm nhặt mà không tin tưởng cùng sự thực hành , cũng không
có lợi ích. Thật cần thiết để phối hợp
kiến thức phát sinh từ sự học hỏi với sự thực hành chân thật trong đời sống
hàng ngày của chúng ta. Hai điều này phải
đi đôi với nhau.
4- HỎI: Ngài
đã từng nói về phụng sự. Làm thế nào
chúng ta có thể phụng sự trong xã hội Tây phương?
ĐÁP: Nếu bạn giúp đở dù chỉ một người, đấy là giúp
đở, là phụng sự. Có những cơ hội rộng
rãi để giúp đở người khác trong lĩnh vực học vấn, trong trường học, đại học,
v.v… Nhiều anh chị em Ki Tô hữu đang thể
hiện những việc làm như thế điều mà tôi rất khâm phục và là điều mà những Phật
tử phải học hỏi. Vì thế trong lĩnh vực của
học vấn và sức khỏe, bạn có thể trực tiếp cống hiến phụng sự.
Cũng
thế trong những nghề nghiệp như là làm việc trong một công ty hay như một công
nhân hãng xưởng, mặc dù quý vị có thể không trực tiếp giúp đở người khác, một
cách gián tiếp quý vị đang phục vụ xã hội.
Ngay cả khi quý vị đang hành động vì quyền lợi lương bổng của mình, một
cách gián tiếp nó hổ trợ mọi người, và quý vị nên hành động với một động cơ tốt
lành, cố gắng nghĩ, “Việc làm của tôi là ý nghĩa giúp đở mọi người.” Nếu quý vị đang chế tạo súng hay đạn, dĩ
nhiên nó sẽ khó khăn. Nếu quý vị đang chế
tạo súng đạn, và luôn luôn nghĩ,”tôi đang làm điều này để giúp đở người khác,”
nó sẽ là đạo đức giả, có phải không?
5- HỎI:
Tôi không cảm thấy xứng đáng như một con
người. Làm thế nào tôi có thể hành động
trên điều này như một thiền sinh bắt đầu tu tập?
ĐÁP:
Bạn không nên ngã lòng. Khả năng nhân bản
là giống nhau cho tất cả mọi người. Sự cảm
nhận của bạn, “tôi vô giá trị,” là sai.
Chắc chắn là sai lầm. Bạn đang lừa
dối chính mình. Tất cả chúng ta có năng
lực của tư tưởng - vậy bạn đang thiếu điều
gì? Nếu bạn có sức mạnh ý chí, thế thì bạn
có thể làm bất cứ điều gì. Nếu bạn trở nên ngã lòng, nghĩ rằng, “Làm thế nào một
người như tôi có thể làm được bất cứ điều gì?”, thế thì không thể nào bạn có thể
thành công. Do vậy, trong Phật giáo thường
nói rằng bạn là người thầy của chính bạn.
Bạn có thể làm bất cứ điều gì.
6- HỎI: Một người
có thể giác ngộ mà không cần phải tách rời khỏi thế giới được không?
ĐÁP: Chắc chắn.
Viễn ly thế giới có nghĩa là từ bỏ sự dính mắc với thế giới. Nó không có nghĩa là quý vị phải tách biệt với
nó. Mục tiêu chính của giáo nghĩa đạo Phật
là để phụng sự người khác. Nhầm mục tiêu
phục vụ người khác quý vị phải ở lại trong xã hội. Quý vị không nên cô lập chính mình với xã hội
còn lại.
7- HỎI: Hoàn
thành tất cả điều ấy là đòi hỏi trên con đường (học hỏi, hướng dẫn, thiền quán)
và hoạt động cung cấp thực phẩm, nơi cư trú, và bảo vệ cho cho gia đình một người
là hai nguyện ước tròn vẹn. Làm thế nào
chúng ta có thể quân bình tất cả những lời nguyện ước của chúng ta?
ĐÁP: Chúng ta phải hành động tối đa cả hai điều
này như mình có thể làm. Điều này vị trí
của riêng tôi, vì chính tôi cố gắng để làm những sự thực hành nào đấy nhưng
cùng lúc thể hiện việc làm trên thực tế lợi ích cho người khác. Cho những người cùng trường hợp tương tự như
tôi, khía cạnh quan trọng nhất là trau dồi một động cơ tốt đẹp và thể hiện
chương trình hàng ngày với nó. Trong buổi
sáng sớm cũng như vào buổi tối khuya, quý vị có thể dành ít nhất nửa giờ đồng hồ
trong sự thực hành thiền quán, tụng kinh, trì chú, thực tập yoga, hay những điều
tương tự. Rồi thì, trong khi làm việc
ban ngày, quý vị nên nhớ đến động cơ.
Mỗi
buổi sáng trước khi hoạt động, chúng ta nên phát sinh một quyết tâm để thể hiện
trong ngày làm việc hôm nay theo những lời giáo huấn và cho sự lợi ích tối đa đến
những người khác. Vào buổi tối, trước
khi lên giường ngũ, kiểm soát lại những gì chúng ta đã làm suốt ngày, cho dù
chúng ta thực sự hành động theo với điều quyết tâm ban đầu hay không. Đấy là cách thể hiện sự thực tập hằng ngày
như thế nào.
__
A
TALK TO WESTERN BUDDHISTS
Trích
từ quyển “The Dalai Lama A Policy of Kindness”
Tuệ
Uyển chuyển ngữ
27-05-2009
No comments:
Post a Comment