ĐẠO PHẬT VÀ GIÁO DỤC
Buddhism in education
Tác giả: Ed Halliwell, guardian.co.uk, Friday 9 July 2010 14.00 BST
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển, 17/11/2010
Thiền tập Phật Giáo là cần thiết trong trường
học do những lợi ích thiết thực của nó. Nhưng có những gì hơn thế ấy.
Khi tín ngưỡng trong
trường học từ mọi truyền thống tiếp tục chiếm những đề mục nổi bật hàng đầu,
thì quan điểm của một nền giáo dục đặc biệt của Đạo Phật không phải tranh cải
nhiều. Những sự thực tập căn bản của trường học gợi hứng từ Đạo Phật, trái
lại đang bắt đầu đạt được sự thúc đầy. Tuần rồi, Goldie Hawn [1]đã
vui mừng hăng hái về việc Anh Quốc bắt đầu chương trình thiền quán trong trường
học của mình, trong khi trên một mức độ thấp hơn, giáo trình chính niệm đã
được giới thiệu trong một số học viện tư thục - – Wellington College và
Tonbridge School ở trong số ấy. Cũng có những khởi đầu giới thiệu thiền
tập trong lĩnh vực quốc gia, dưới sự hướng dẫn của những nhà tâm lý học như Mark Williams ở
Oxford.
Như được nói rằng Đạo Phật hình thành ở phương
Tây như một môn tâm lý học hơn là một tôn giáo, và điều này dường như là trường
hợp ở đây – nhiều người giới thiệu thiền tập ở trường học không minh định [hay
nhân danh] như những Phật tử. Và nhân tố căn bản đã chủ yếu là khoa học –
bên cạnh những lợi ích khác, thiền tập đã được cho thấy để bồi dưỡng kỷ năng
chú ý, giảm thiểu xung đột, và gia tăng thái độ hợp tác xã hội cũng như khả
năng liên hệ (trong thiếu nhi và người lớn), và bảo hộ việc chống lại băn khoăn
và chán nản.
Những sự thực tập được trình bày trong phong
cách tích cực này là khéo léo – viễn tượng dạy dỗ thiếu nhi chú tâm vượt
xa sự hấp dẫn của những nhà giáo dục bừng lên một thoáng như đề nghị, như
là phong trào hippie, mà thiền tập sẽ liên kết người ta đến một sự thấu
hiểu trãi nghiệm sâu xa. Có phải cả hai điều này thật sự khác
nhau? Một sự thông hiểu trãi nghiệm sâu xa hơn không có nghĩa là sự nối
kết với một thể trạng trần gian khác khơi mở những bí mật của vũ trụ - trong
phạm vi của thiền tập, sự thông hiểu nàycó vẻ liên hệ đến việc phát triển một
sự khám phá bây giờ và ở đây của tư tưởng, những cảm nhận và những sự kiện, và
việc nhận ra chúng liên kết hổ tương như thế nào để tạo nên nhận thức của chúng
ta về thế giới.
Khả dĩ của việc trình bày thiền quán đơn thuần
trong dạng thức “ở đây là những gì chúng ta thoát khỏi” (giải thoát) là điều có
thể đi đến việc dường giống như một kỷ năng cho việc tự trau dồi, hay tự kiểm
soát, khi thật sự nó là về ‘việc để tự ngã ra đi’(vô ngã), một sự tảng lờ đến
việc mà từ đấy một sự thông hiểu mới có thể bùng phát. Hơn là cung ứng một
hứa hẹn cho sự cải thiện, hay một sự bảo đảm sai lạc căn cứ trên tín ngưỡng,
thì thiền quán có thể là một phương cách của giáo huấn hồ nghi – một điều không
chắc chắn khởi đầu lại có thể là một nội dung hữu ích cho học tập. Bằng
việc tiếp nhận một nhận thức khác biệt về kinh nghiệm – nhìn nó, quán xét nó một
cách chính niệm trong một lúc, hơn là vùi đầu trong học hỏi, chúng ta có thể
trở nên quen thuộc hơn đến những thái độ của chúng ta định hình thế giới như
thế nào, và cung cách chúng ta thấy mọi sự, mọi vật như thế nào mà không phải
là phong cách chúng nhất thiết là [như thế].
Đây hoàn toàn không phải là chủ nghĩa hoài
nghi mà Richard Dawkins đã đề nghị, mà có thể là một bộ phận chủ yếu của một
loại trường học vô thần [2] – như Andrew Brown đã từng chỉ ra, tiền đề không
được nói ra ở đấy là sự nghi ngờ được dạy phù hợp với một hệ thống luật lệ được
ban bố, với những ý tưởng nghi ngờ ẩn tàng mà chúng không thể chứng minh được -
tối thiểu là bây giờ. Thay vì thế, sẽ căn bản hơn – một phương pháp cho
việc trở thành sống động hơn đến sự trãi nghiệm thay đổi liên tục (thông minh,
cảm xúc, cảm giác thân thể, nhận thức sự kiện), và việc phát triển một sự thông
hiểu đã đáp ứng đến một nhân tố (hay một thời khắc), khi bộ phận nắm toàn quyền
sự thật để tập trung và phán xét trong một cung cách làm giới hạn cái nhìn của
chúng ta.
Nó là loại tuệ trí mà Socrates đã nói đến khi
ông nói là trong khi ông không biết gì, ông đã biết “điều gì đấy” từ
việc không biết gì. Một cách tương tự, bằng việc khảo sát trong một phương
tiện thiền quán, chúng ta có thể tiếp cận hơi gần gũi hơn để nhận ra những định
kiến làm phiền toái chúng ta như thế nào. Đấy là một sự tiếp cận mà có thể
không chỉ có nghĩa là ít chiến đấu hơn trên sàn đấu, nhưng là sự trãi rộng lòng
khiêm cung củng cố cho sự tìm kiếm tiếp tục cho những trả lời – chúng ta có thể
chấp nhận rằng đấy là một cuộc chiến đấu ngay cả hình thành những câu hỏi thật
tuyệt hảo.
Sẽ không có bất cứ
điều gì rõ ràng hay riêng biệt Phật Giáo về một nền giáo dục, và cũng không nên
có (như sưAjan Amaro [3]
nói: “Nếu quý vị nghĩ quý vị là Phật tử, quý vị hoàn toàn lạc
lõng!”). Nhưng sẽ vinh danh tâm linh của sự thẩm tra cởi mở, hiện thân
hoàn toàn mà truyền thống Phật Giáo có thể cống hiến trong khả năng tuyệt vời
nhất.
[1] Goldie Hawn: là một nữ
minh tinh điện ảnh Hoa Kỳ, sinh ngày 21/11/1945. Bà tìm đến với triết lý
Đông phương năm 1972. Là một người thực hành Đạo Phật và đã nuôi hai con,
một gái một trai trong cả truyền thống Phật Giáo và Do Thái. Bà thành lập
và tài trợ cho Tổ Chức Hawn, một tổ chức dạy kỷ năng thực tập chính niệm; tổ
chức cho những học sinh từ lớp bốn đến lớp bảy được hướng dẫn thực tập chính
niệm và những kỷ năng suy nghĩ tích cực, sau đó thử nghiệm những sự thay đổi
trong thái độ, năng lực xã hội và cảm xúc, và sự phát triển đạo đức. Một
nghiên cứu cho thấy rằng thiếu niên tham gia chương trình gia tăng một cách nổi
bật trong lĩnh vực lạc quan, và những cảm xúc tích cực. Hawn đã từng
thương thảo với Đảng Bảo Thủ để thiết lập một trường học ở Anh Quốc áp dụng
giáo trình Chính niệm. Bà nhận thức rằng nhiều bậc cha mẹ chống đối việc
đem những phương pháp Phật Giáo vào những trường công cộng, và mới đây đã tuyên
bố trong tạp chí Greater Good rằng, “Luôn luôn có những người sợ hãi điều này,
hay một loại triết lý Đông phương nào đấy mà họ không muốn con cái họ tiếp
nhận.” Và bà nói thêm, “Chính niệm ban cho thiếu niên một khí cụ để
thông hiểu não bộ chúng hoạt động như thế nào, để có thêm sự tự kiểm soát.”
[2] Atheist: Có lẻ phải phân
biệt hai loại vô thần: Vô Thần Duy Vật và Vô Thần Duy Tâm. Vì Đạo Phật bác
bỏ một đấng tạo hóa tạo ra muôn loài nên Đạo Phật là vô thần, nhưng Đạo Phật
với quan điểm nhất thiết duy tâm tạo, nên Đạo Phật là Vô Thần
Duy Tâm. Đương nhiên đối với Vô Thần Duy Vật: không tin có Thượng Đế,
không tin có thế giới tâm linh, thế giới vô hình, cũng như không có thần
thánh. Nhưng thuật ngữ “atheist” tức là ‘không có đấng tạo hóa tạo’ khi
dịch là “vô thần” thường bị hiểu lầm là không có thần thánh đối với Vô
Thần Duy Tâm, trái lại Mười Pháp Giới của Đạo Phật, từ chư Phật - Bồ tát -Thinh
văn - Duyên Giác - cõi thiên, có đến 33 tầng trời - cõi A tu la, một loại bán
thiên - cõi người - cõi súc sinh - đến cõi ngạ quỹ và địa ngục là không thể
thấy bằng mắt của phàm nhân. Nam Mô Hộ Giáo Hộ Giới Già Lam Thánh
Chúng Liệt Vị Thiện Thần Bồ tát.
[3] Ajahn Amaro (tên thật là
Jeremy Horner, sinh năm 1956 tại Kent, Anh quốc) là một giáo thọ Theravada và
đồng viện chủ tu viện the Abhayagiri Buddhist Monastery tại California's Redwood Valley. Trung tâm thực tập
theo truyền thống Thiền Lâm Thái Lan (Thai Forest Tradition).
No comments:
Post a Comment