Issues in Buddhist Sexual Ethics.
Tác giả: Alexander Berzin
Morelia, Mexico, Sept., 1998 lightly edited transcript
MỤC LỤC
1- Những hệ thống đạo đức tôn trọng pháp luật và
nhân bản của Tây Phương
2- Đạo đức không phán xét của Phật giáo
3- Phân biệt giữa những thái độ xây dựng và tàn phá
4- Sự chín muồi của nghiệp báo và luật quyết
định
5- Những động cơ cho thái độ tàn phá
6- Nguyên nhân và những động cơ hiện tiền
7- Sự ám ảnh của mong ước tham dục và sự quan tâm sai lầm
8- Tham dục sinh học chống lại tham dục ám ảnh
9- Sự phát triển của điều được xem như thái độ không thích đáng
của tình dục
10- Thái độ tình dục không thích đáng đối với phụ nữ
11- Đồng tính luyến ái
12- Những vị trí không thích đáng cho tình dục
13- Thủ dâm
14- Hành nghề tình dục chuyên nghiệp
15- Sự không hài lòng với tình dục và mong ước đa dạng
16- Nhất Hạnh Thiền Sư và những hướng dẫn liên hệ đến thái độ tình
dục không thích đáng
17- Đừng đánh giá cao tình dục
18- Sợ hãi tình dục
19- Phá thai
20- Kiểm soát sinh sản
21- Tóm lược
22- Phá thai bất hợp pháp
23- Đạo đức trong sạch về tình dục
24- Hồi hướng
--***--
Nếu được ngũ-dục,
Nên nguyện chúng-sanh,
Nhổ mũi tên dục,
Rốt ráo an-ổn.
(Kinh Hoa Nghiêm - Đại sư Trí Tịnh dịch)
-***--
1- NHỮNG HỆ THỐNG ĐẠO ĐỨC TÔN TRỌNG PHÁP LUẬT VÀ
NHÂN BẢN CỦA TÂY PHƯƠNG
Chủ đề tối nay là quan điểm của Phật giáo đối với vấn đề đạo đức
tình dục. Phổ thông mà nói, trong Phật giáo, chúng tôi luôn luôn cố gắng
để đi theo con đường trung đạo, và vì thế sự quan tâm đến tình dục, chúng tôi
muốn tránh hai cực đoan. Một cực đoan là thể hiện quá nghiêm khắc và khốc
liệt. Quan điểm này nhìn tình dục như điều gì ô uế và, một cách căn bản
là, xấu xa. Nhưng, rồi thì, chúng tôi cũng muốn tránh một cực đoan khác,
đấy là thái độ đối với tình dục là bất cứ điều gì cũng tốt, cũng okay: “Cứ
biểu lộ cá tính của bạn.”
Con đường trung đạo của Đạo Phật dạy một sự tiếp cận đối với tình
dục phải tránh hai cực đoan này. Tuy thế, để theo đuổi nó, chúng ta cần
phải thông hiểu quan điểm của Đạo Phật về đạo đức. Như có nhiều hệ
thống đạo đức khác nhau, chúng ta cần phải cẩn thận không tự đặt ra cho chúng
ta những hệ thống đạo đức riêng trên Phật giáo. Thí dụ, đạo đức của Thánh
kinh dạy một loạt những luật lệ được ban bố với một thẩm quyền cao cấp, bởi
Thượng đế. Thế thì, thái độ đạo đức là một vấn đề tuân thủ những luật
lệ. Nếu chúng ta tuân theo luật lệ của Thượng đế, chúng ta là “những con
người tốt” và sẽ được ban thưởng. Nếu chúng ta bất tuân chúng, chúng ta
là “xấu” và sẽ bị trừng phạt.
Một hệ thống đạo đức quan trọng khác mà chúng ta thừa kế ở
phương Tây là từ Hy Lạp cổ đại. Nó hoàn toàn tương tự với loại của Thánh
kinh, nhưng thay vì những luật lệ được ban bố bởi Thượng đế, ở đây chúng được
ban hành bởi cơ quan lập pháp dân cử của chính quyền. Và một lần nữa, đạo
đức là một vấn đề của sự tuân thủ. Nếu chúng ta tuân theo những luật lệ
dân sự, chúng ta là “những công dân tốt”; nếu chúng ta không tuân theo, chúng
ta là “những công dân xấu.” Chúng ta là những tội phạm và bị tống vào nhà
giam.
Chúng ta có thể thấy rằng cả hai hệ thống đạo đức tuân theo pháp
luật này đòi hỏi và làm chúng ta cảm thấy tội lỗi. Nói cách khác, cả hai
căn cứ trên một sự quyết định [của tòa án] hay sự trừng phạt. Có những
hành động nào đấy mà chúng bị phán quyết một cách đạo đức là “xấu” và những hành
động khác được quyết định một cách đạo đức như “tốt.” Nếu chúng ta phạm
phải điều gì “xấu,” chúng ta tội lỗi. Nếu chúng ta hoán đổi loại
tiếp cận phát quyết đạo đức kiểu này trên tình dục, thế thì những cảm giác về
tội lỗi đi cùng với thái độ tình dục của chúng ta, thậm chí nếu không có ai bắt
gặp chúng ta làm điều gì ấy “thô tục.” Điều này là bởi vì chúng ta trở
thành những quan tòa và chúng ta phán xét chính mình, ngay cả không ai khác
đang phán xét chúng ta.
Một hình thức thứ ba của đạo đức phương Tây là đạo đức nhân bản
hiện đại. Điều này căn cứ trên nguyên tắc không làm tổn hại đến những
người khác. Bất cứ điều gì chúng ta làm là okay, cho đến khi nào chúng ta
không gây ra sự tổn hại [đến người khác]. Nếu chúng ta gây ra sự tổn hại,
điều đó là phi đạo đức. Thông thường, chúng ta lẫn lộn đạo đức nhân bản
và sự tôn trọng luật pháp với nhau, vì thế nếu chúng ta làm tổn thương ai đấy,
chúng ta cảm thấy rất xấu xa và tội lỗi về điều ấy.
2- ĐẠO ĐỨC KHÔNG PHÁN XÉT CỦA PHẬT GIÁO
Đạo đức của Phật giáo hoàn toàn khác biệt với tất cả điều
ấy. Nó không căn cứ trên việc vâng lời những luật lệ. Nó cũng không
căn cứ một cách đơn thuần trên việc cố gắng không làm tổn thương người khác, dĩ
nhiên mặc dù chúng ta cố gắng một cách tối đa không gây ra tổn hại.
Nhưng nó tiến sâu hơn điều ấy. Theo Phật giáo, căn bản để là một con
người đạo đức là tránh hành vi bị thúc đẩy bởi khát vọng chiếm hữu, sân hận,
hay ngu si, và có sự tỉnh thức phân biệt đúng đắn. Điều sau cùng có nghĩa
là khả năng để phân biệt giữa những động cơ nào và hành động nào là xây dựng và
những thứ nào là tàn phá. Những động cơ và thái độ xây dựng và tàn phá, ở
đây, liên thệ đến những thứ mà sẽ hình thành nên những khuynh hướng và thói
quen trong tương tục tâm của chúng ta và tại một thời điểm nào đấy trong tương
lai sẽ gây ra cho chúng ta kinh nghiệm an lạc hay khổ đau như hậu quả của
chúng.
Không người nào đã làm nên những luật lệ để quy định điều nào là
xây dựng hay tàn phá. Đấy chính là cung cách tự nhiên của vũ trụ mà
một số hành động nào đó sẽ là nguyên nhân là cho chúng ta khổ đau và những hành
động khác thì không đưa đến khổ đau. Thí dụ, nếu chúng ta đặt tay trên
lửa, chúng ta sẽ bị phỏng và rồi sẽ đau đớn. Đó là một hành động tàn phá,
đúng không? Không ai làm nên luật lệ đó: nó chỉ là cung cách tự
nhiên của mọi thứ là thế ấy. Thế thì, nếu ai đấy đưa tay họ vào lửa, điều
ấy không khiến cho họ trở thành một người xấu. Nhưng có lẽ nó làm nên một
con người khờ dại hay một con người không hiểu biết đến nguyên nhân và hậu quả,
tuy thế chắc chắn nó không làm cho họ thành một người “xấu”.
Sự thúc đẩy căn bản về đạo đức của Phật giáo, thế thì, đấy là cố
gắng để thông hiểu những loại động cơ và thái độ nào là tàn phá và những loại
nào là xây dựng. Nói trong một ngôn ngữ khác, chúng ta cần nghiên cứu để
phân biệt giữa những gì sẽ làm nguyên nhân cho chúng ta bất toại và những gì sẽ
mang đến hạnh phúc an lạc cho chúng ta.Và rồi thì, tùy chúng ta; đấy là trách
nhiệm của chúng ta những gì chúng ta sẽ trãi qua trong tương lai. Thí dụ,
nó giống như chúng ta nghiên cứu về những nguy hiểm của hút thuốc và rồi thì
tùy chúng ta chọn hút thuốc hay không. Nếu ai đấy hành động một cách tàn
phá và làm nguyên nhân tổn hại, họ đúng là những đối tượng của từ bi.
Không nên khinh thường đối với họ về đạo đức và thương hại họ. Đó không
phải là thái độ của Đạo Phật. Nhưng điều ấy đáng buồn vì họ không thấu
hiểu hiện thực.
Phật giáo có một tiếp cận giống như thế đối với đạo đức tình
dục. Không phán xét. Những loại thái độ và động cơ nào đấy là
tàn phá và nguyên nhân làm chúng ta khổ não, trong khi những thứ khác là xây
dựng và mang hạnh phúc đến với chúng ta. Và một lần nữa, nó tùy chúng
ta. Nếu chúng ta muốn có hàng khối vấn nạn từ thái độ tình dục của chúng
ta, thì cứ tiến tới và đam mê [với chúng]. Nhưng, nếu chúng ta không muốn
có rắc rối, thế thì có những thứ nào đó mà chúng ta cần phải tránh.
Chúng ta có thể thấu hiểu điều khác biệt hoàn toàn dễ dàng từ một
thí dụ. Nếu chúng ta muốn có một vụ làm tình không có bảo hộ với một
người hành nghề chuyên nghiệp, ồ, điều đó là khờ dại và rất ư là ngu ngốc như
chúng ta đi trên một hiểm họa chắc chắn sẽ bị nhiễm AIDS. Nhưng điều đó
không làm chúng ta trở thành một người xấu. Nó là sự lựa chọn của chúng
ta. Quý vị thấy đấy, đấy là một thái độ hoàn toàn khác biệt đối với tình
dục. Đấy là toàn bộ chìa khóa để thấu hiểu sự tiếp cận của Phật giáo.
3- PHÂN BIỆT GIỮA NHỮNG THÁI ĐỘ XÂY DỰNG VÀ TÀN
PHÁ
Nhầm đề nhìn vào chi tiết của đạo đức tình dục Phật giáo, chúng ta
cần thông hiểu sự khác nhau giữa những gì xây dựng và tàn phá theo quan điểm
của Đạo Phật. Thông thường, Phật giáo phân biệt giữa những hành vi bị lẫn
lộn với sự mơ hồ [1] và những thứ nào đấy là không mơ hồ. Những
thuật ngữ thường được diễn dịch như hành vi “nhiễm ô” và “không ô nhiễm” – bị
nhiễm ô với sự mơ hồ về tính tự nhiên của chính chúng ta, những người khác, và
thực tại một cách phổ thông. Sự mơ hồ hay bất giác đưa đến khát vọng
chiếm hữu, sân hận, hay khờ khạo một cách đơn giản, là điều rồi thì thúc đẩy
hành động của chúng ta.
Những hành vi không mơ hồ [hay tỉnh giác] đòi hỏi một nhận thức
không vướng mắc [2] của tính không – sự thông hiểu mà ảo tưởng phóng chiếu của
chúng ta về thực tại không quy cho bất cứ điều gì là thật. Loại thông
hiểu ấy là rất khó khăn để có, ngay cả một cách khái quát. Do thế, đối
với hầu hết mọi người chúng ta, tất cả những hành vi của chúng ta là đi với mơ
hồ [hay bất giác]. Chúng sinh khởi từ sự bất giác [mơ hồ] và đồng hành
với si mê [mơ hồ]. Chúng là những loại hành vi liên hệ với điều mà chúng
ta gọi là “nghiệp báo”. Chúng là nguyên nhân làm cho chúng ta tiếp
tục trãi qua những sự tái sinh trở lại không thể kiểm soát – luân hồi – đầy dẫy
với những vấn nạn rắc rối.
Những hành vi bất giác có thể là tàn phá, xây dựng, hay bất
định. Những hành vi tàn phá luôn luôn trộn lẫn với si mê và là những thứ
chín muồi thành bất hạnh hay khổ đau. Những thứ xây dựng hòa lẫn với bất
giác trổ quả hạnh phúc, nhưng trong hạnh phúc mà nó không bao giờ kéo dài và
chẳng bao giờ toại ý. Những hành vi bất định cũng có thể lẫn với bất giác.
Chúng chín muồi thành những cảm giác trung tính, không phải an lạc cũng chẳng
phải khổ đau.
Chúng ta đã thấy một thí dụ về một hành vi tàn phá, có nghĩa là,
có làm tình không bảo hộ với một người hành nghề chuyên nghiệp. Thái độ như thế
rõ ràng trộn lẫn với sự mê mờ về thực tại, khờ dại, và thường mong ước
thèm khát.
Một thí dụ về một hành vi xây dựng trộn lẫn với bất giác, liên hệ
đến trường hợp của một bà mẹ của một đứa con trai 24 tuổi, một bà mẹ luôn luôn
cố gắng để làm những việc ân cần đến cậu ta, chẳng hạn như chuẩn bị thức ăn
ngon miệng. Nuôi dưỡng đứa con trai bà là một hành động của yêu thương và
là một việc làm xây dựng. Nó sẽ trổ quả trên kinh nghiệm hạnh phúc và sự
cát tường của bà mẹ. Tuy nhiên, bà ta cũng nấu nướng cho cậu con trai bởi
vì nó làm cho bà cảm thấy hữu dụng và được cần đến. Đây là chỗ mà rắc rối
[của mê mờ] xãy đến. Cậu con trai 24 tuổi có thể không muốn được săn sóc
như một cậu bé con, khi mà nó không về nhà vào giờ cơm, nó được [mẹ nó] lân la
để gợi chuyện “Tại sao con không về nhà? Mẹ làm thức ăn rất là
ngon. Con thật là thiếu cẩn trọng [không quan tâm đến mẹ gì cả]”.
Sự chuẩn bị của bà mẹ trộn lẫn với dính mắc của mê mờ của cái “tôi, tôi ,
tôi. Tôi muốn cảm thấy hữu dụng, tôi muốn cảm thấy được cần đến.”
Quan tâm của tự ngã đặt bên dưới hành vi xây dựng và động cơ ân cần của
bà. Bất cứ niềm hạnh phúc nào mà bà cảm thấy như một kết quả của những
hành vi ân cần của bà sẽ là mong manh và không ổn định. Nó chẳng bao giờ
kéo dài và sẽ không bao giờ hài lòng. Thêm nữa, động cơ vị ngã của bà sẽ
không tránh khỏi mang đến cho bà sự chán nãn, lo buồn, và đau khổ.
Một hành vi bất định, trung tính, chẳng hạn như xúc miệng, chà
răng có thể trộn lẫn với mê mờ rằng do việc ấy, chúng ta có thể thật sự làm cho
miệng chúng ta thơm, răng chúng ta sạch và chính chúng ta trông lịch sự cùng
xinh xắn hơn. Nhưng, chúng ta chẳng bao giờ có thể làm cho hơi thở chúng
ta sạch sẽ một cách căn bản, vì rất nhanh chóng răng chúng ta lại trở lên nhơ
uế và hơi thở chúng ta rất nặng mùi. Có một sự bất giác ở đây về thực
tại, một cấp độ nào đó của ngu ngơ, và một sự quan tâm mạnh mẽ của tự ngã về
điều,chúng ta trông như thế nào. Mặc dù chà răng có kết quả trong cảm
giác không vui cũng chẳng buồn – chúng ta chỉ đơn thuần làm điều ấy cho việc
cần phải làm – chúng ta cũng đang làm cho tình trạng luân hồi chúng ta
không ngừng nghĩ. Chúng ta sẽ cần phải chà răng chúng ta lập đi lập lại
trong suốt cuộc đời của chúng ta. Đơn giản rằng những hành vi lập lại trung
tính đang chăm sóc cái thân thể luân hồi của chúng ta, khi chúng ta pha lẫn với
dính mắc vì một ‘cái tôi vững chắc’ [3], làm cho bất diệt sự lập đi lập lại
vòng hiện hữu luân hồi của chúng ta, với tất cả những vấn nạn rắc rối của
chúng.
4- SỰ CHÍN MUỒI CỦA NGHIỆP BÁO VÀ LUẬT QUYẾT
ĐỊNH
Chúng ta cần thông hiểu một cách rõ ràng hơn ý nghĩa điều Đạo Phật
tuyên bố rằng những hành vi pha lẫn với bất giác hay mê mờ “chín muồi’ thành
khổ đau, hạnh phúc của cõi luân hồi, hay một cảm giác trung tính. Nguyên
tắc này gắn liền đến tất cả những thái độ thông thường của chúng ta, bao gồm cả
thái độ tình dục.
Đạo Phật nói về luật quyết định của nghiệp báo. Chắc chắn
rằng những hành vi tàn phá sẽ ‘chín muồi’thành khổ đau, ngoại trừ chúng ta tự
tịnh hóa chính mình với những khuynh hướng nghiệp [4] mà chúng đã xây dựng
nên. Hay, theo một cách ngược lại, nếu chúng ta bây giờ đang trãi qua khổ
đau, kinh nghiệm này đã chín muồi từ khuynh hướng nghiệp hay nghiệp nhân đã
được xây dựng nên bởi những thái độ tàn hại của chúng ta trong quá khứ.
Luật này cũng đúng liên hệ đến niềm hạnh phúc thông thường [của phàm phu] và
những hành vi xây dựng pha lẫn với bất giác.
Chữ quan trọng để thấu hiểu trong luật quyết định là chữ ‘chín
muồi’. “Chín muồi” thành khổ đau không chỉ đơn giản là “đưa đến kết quả”
trong khổ đau. Điều này là bởi vì những hành vi của chúng ta có nhiều kết
quả, và hầu hết chúng là không chắc chắn. Thí dụ, không chắc chắn, trong
khi thực hiện một hành vi, chúng ta sẽ trãi qua hạnh phúc hay khổ đau.
Liên hệ đến việc chúng ta dẫm chân lên một con gián. Chúng ta có thể dẫm
chân lên nó và thật sự cảm thấy thú vị trong việc sát hại một con vật mà chúng
ta xem như một thứ kinh tởm. Hay khi dẫm chân lên con gián, chúng ta có
thể cảm thấy khiếp sợ và ghê tởm. Trong khi giúp đở ai đấy thực hiện xong
một nhiệm vụ khó khăn, chúng ta có thể cảm thấy hạnh phúc hay chúng ta cảm thấy
bực bội về công việc khó nhọc.
Cũng không chắc chúng ta sẽ cảm thấy thế nào ngay lập tức tiếp
theo sau hành động của chúng ta. Sau khi có một vụ làm tình không bảo hộ
với một người hành nghề chuyên nghiệp, chúng ta có thể cảm thấy vui vẻ về việc
ấy hay lo sợ rằng chúng ta có thể bị nhiễm AIDS. Sau khi tặng ai một số
tiền, chúng ta có thể vui mừng với hạnh phúc hay cảm thấy hối hận và không vui
về việc ấy. Những kết quả ngắn hạn của những hành vi ấy cũng không chắc
chắn. Nếu chúng ta ăn cướp một nhà băng, chúng ta có thể bị bắt bởi cảnh
sát, hay chẳng bao giờ bị bắt. Nếu chúng ta trung thực với việc làm của
chúng ta, chúng ta có thể được đề bạt và vui mừng, hay mặc dù làm việc tốt, chúng
ta có thể bị sa thải và khổ sở. Tất cả những loại kết quả này là không
chắc chắn. Luật quyết định của nghiệp báo không nói về chúng.
Thậm chí cũng không chắc chắn là hành vi của chúng ta sẽ là nguyên
nhân cho hạnh phúc hay khổ đau đến người mà chúng ta có ý chống lại hay không –
hoặc là trong lúc hành động của chúng ta xãy ra, ngay lập tức sau đấy, trong
ngắn hạn, hay trong dài hạn. Chúng ta có thể nói dối với ai đấy về khả
năng của họ, nói với họ rằng họ giỏi hơn năng lực của họ. Điều này có thể
làm cho họ vui mừng, cả trong khi đang nói với họ và ngay lập tức sau
đấy. Trong ngắn hạn, và thậm chí về lâu dài, nó có thể làm cho họ cảm
thấy vững vàng để thành công. Nhưng, nó có thể làm cho họ cảm thấy điều
gì ấy không tốt đồng thời, bởi vì họ biết chúng ta chỉ đang cố gắng thổi phồng
họ lên (có thể là đi tàu bay giấy) và điều chúng ta nói là không đúng.
Ngay cả nếu họ tin tưởng chúng ta, họ có thể khuếch trương chính họ quá độ như
một kết quả, và rơi rụng một cách thảm hại trong việc làm tương lai của
họ. Trái lại, nếu chúng ta nói sự thật với họ, họ lại cảm thấy thối chí
và, thiếu vắng sự tự tin, rồi thất bại trong những gì họ cố gắng hoàn
thành. Hay, họ có thể cảm thấy vui mừng vì chúng ta chân thành với họ và,
dấn thân chính họ vào những nhiệm vụ ít thử thách hơn trong đời sống, để thành
công mỹ mãn và hạnh phúc.
Thế thì, hoàn toàn không chắc chắn, những gì sẽ xãy ra liên quan
đến những loại kết quả này của những hành động của chúng ta. Đây là tại
sao chúng ta nói rằng đạo đức Phật giáo không căn cứ một cách đơn giản trên
việc không làm tổn hại đến người khác. Nó là bởi vì chúng ta chẳng bao
giờ có thể bảo đảm hiệu quả là thế nào đối với những hành động của chúng ta sẽ
xãy ra cho họ. Dĩ nhiên, chúng ta cố gắng để không làm tổn hại cho người
khác. Nhưng ngoại trừ chúng ta là những vị Phật, không thì chúng ta chẳng
bao giờ biết những kết quả này sẽ là gì.
Do thế, khi chúng ta nói về những hành vi tàn phá “chín muồi”
thành khổ quả, chúng ta đang nói về một tiến trình phức tạp qua những cung cách
của chúng ta về hành động, nói năng, và suy tư xây dựng nên một khuynh
hướng và thói quen nào đấy. Thí dụ, nếu chúng ta có những quan hệ ngoại
tình, chúng ta xây dựng nên hay thúc đẩy thói quen về việc thể hiện không thõa
mãn với người phối ngẫu và luôn luôn đi tiếp từ lần này đến lần khác.
Biểu hiện không thõa mãn và bồn chồn liên quan đến đời sống tình
dục của chúng ta là một kinh nghiệm khổ sở, có phải thế không? Và thế
thì, nếu chúng ta chẳng bao giờ hài lòng với người bạn phối ngẫu và sẽ buồn bực
trong những quan hệ như vậy, chúng ta cũng sẽ không hài lòng với người yêu của
chúng ta. Nhưng mối quan hệ như thế cũng sẽ không kéo dài, và chúng ta sẽ
tiếp tục tìm kiếm một người khác. Hơn thế nữa, người phối ngẫu của chúng
ta cũng sẽ không trung thực. Tại sao họ phải trung thực với chúng ta, nếu
chúng ta không trung thành với họ? Do thế, có nhiều hậu quả tác động lâu
dài và hàng khối rắc rối đưa đến. Đấy là những gì chắc chắn từ hành động
một cách tàn phá.
5- NHỮNG ĐỘNG CƠ CHO THÁI ĐỘ TÀN PHÁ
Hãy nhìn một cách gần gũi hơn một ít về điều gì là tàn phá – điều
gì sẽ đem đến những thói quen tiêu cực mà nó sẽ làm sinh khởi những vấn nạn rắc
rối về tương lai lâu dài của chúng ta. Nhân tố chính quyết định một
hành động tàn phá hay không là tình trạng của tâm niệm thúc đẩy nó. Những
hành vi tàn phá có thể bị thúc đẩy bởi mong ước thèm khát – thí dụ, sự ám ảnh,
dính mắc, hay bức bách với tình dục, là điều làm nguyên nhân để ai đấy tiến
hành từ một mạo hiểm tình dục này đến một mạo hiểm khác. Chúng cũng có
thể bị thúc đẩy bởi sân hận hay thù địch, giống như trường hợp của người nào đó
đã hãm hiếp nhiều phụ nữ bởi vì người ấy tức giận với đàn bà và muốn làm tổn
thương họ. Hay thái độ tàn phá có thể bi thúc đẩy bởi sự ngu khờ - mê mờ
về nhân và quả, hay về thực tại, chẳng hạn như thí dụ mà chúng ta
đã trích dẫn trước đây về hành vi tình dục không bảo hộ với một người hành nghề
chuyên nghiệp. Khờ dại, ngu ngơ, hay si mê thường bị pha lẫn với sự ám
ảnh của thèm khát hay thù hận.
Những thái độ nền tảng khác cũng luôn luôn đồng hành với những
hành vi tàn phá. Những điều này không có ý nghĩa đối với chính chân giá
trị đạo đức – không đưa đến việc thái độ của chúng ta phản chiếu trên chúng ta
như thế nào – và cũng không có sự quan đến việc thái độ chúng ta phản chiếu
trên người khác như thế nào, chẳng hạn trên gia đình chúng ta, những vị thấy
tâm linh, những người thôn quê và v.v…Chúng ta có thể thấu hiểu điều này nếu
chúng ta nghĩ về thí dụ cựu Tổng thống Clinton vùng quan hệ của ông và Monica
Lewinsky là điều đã làm nguyên nhân cho rất nhiều tai tiếng.
Những cảm xúc phiền não quấy rầy khác, chẳng hạn như ganh tị, nó
đồng hành với những động cơ tàn phá cũng tàn phá như thế, như là những hành
động chính chúng bị thúc đẩy bởi chúng. Thế thì trong tổng quát, chúng ta
cũng có thể nói rằng luân hồi sinh tử - sự tái sinh không kiểm soát – là tàn
phá.
6- NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG ĐỘNG CƠ HIỆN TIỀN
Sự trình bày của Phật giáo về đạo đức cũng khác biệt giữa động cơ
của nguyên nhân và động cơ hiện tại. Động cơ nguyên nhân là điều [tiềm
ẩn] ban đầu đưa chúng ta đến một hành động. Động cơ hiện tiền hiện hữu
ngay thời điểm hành động. Trong trường hợp của những hành động đạo đức
trung tính một cách tự nhiên – Đức Phật không định rõ chúng là xây dựng hay tàn
phá – đấy là động cơ hiện tiền quyết định hành động là xây dựng hay tàn phá,
chứ không phải là nguyên nhân gốc rễ [tiềm ẩn]. Trong trường hợp những
hành động mà Đức Phật xác định rõ ràng như xây dựng hay tàn phá, động cơ hiện
tiền là điều có một tác động mạnh mẽ hơn trên kết quả nghiệp báo nặng nề hay
nhẹ nhàng.
Quyết định chuyện phòng the với người phối ngẫu của chúng ta, là
điều trong ấy và tự nó là một hành động đạo đức trung tính. Chúng ta có
thể được thúc đẩy một cách hệ quả để có việc chăn gối vì một lý do xây
dựng. Chúng ta có thể muốn làm cho người phối ngẫu của chúng ta vui tươi
hạnh phúc hay chúng ta có thể muốn có con cái. Nhưng, khi chúng ta thật
sự bắt đầu thể hiện hành động chăn gối, nếu sự ám ảnh [hay vướng mắc] với sự
khoái cảm và khát vọng lấn lướt như động cơ hiện tiền của chúng ta, hành động trở
nên tàn phá thay vì như động cơ nguyên nhân tích cực ban đầu. Thực hành
chuyện phòng the với một ám ảnh vì dục tình xây đắp nên một thói quen tiêu cực
mà về lâu về dài, sẽ trở thành nguyên nhân của khổ não hay bất hạnh.
Động cơ nguyên nhân tự nó có thể cũng là tàn phá. Ám ảnh [hay dính
mắc] với dục tình có thể đưa đẩy chúng ta vào trong chuyện tình dục và nó cũng
là động cơ hiện tiền. Động cơ nguyên nhân, tuy thế, cũng có thể là trung
tính. Chúng ta có thể muốn có chuyện tình dục nhầm mục tiêu rơi vào giấc
ngủ một cách dễ dàng hơn. Nhưng rồi thì, khi chúng ta thật sự bắt đầu làm
chuyện ấy, chúng ta trở nên bị lấn áp hoàn toàn với khát dục và sự dính mắc của
chúng ta với chúng. Một lần nữa, hành động dục tình trở nên tàn phá.
7- SỰ ÁM ẢNH CỦA MONG ƯỚC THAM DỤC VÀ SỰ QUAN
TÂM SAI LẦM
Vì đối với hầu hết mọi người cảm xúc phiền não sẽ đi đến thực hiện
một hành vi tình dục tàn phá là tham dục mong ước ám ảnh, hãy nhìn một gần gũi
hơn vào tình trạng của tâm thức. Mong ước tham dục là một càm xúc phiền não
hướng đến điều gì đấy mà chúng ta không sở hữu và là mong ước mạnh mẽ để sở hữu
nó, căn cứ trên sự đánh giá quá cao những phẩm chất tốt đẹp của đối
tượng. Điều này có thể xãy ra khi chúng ta không có bất cứ một phân lượng
nào của đối tượng ấy hay khi chúng ta đã có một phần nào đấy rồi và tham muốn
nhiều hơn nữa. Dính mắc là tương tự. Nó là một cảm xúc phiền não
hướng đến điều gì đấy mà chúng ta đã có rồi và căn cứ trên sự đánh giá quá mức
phẩm chất của đối tượng, chúng ta không muốn buông bỏ nó.
Thêm nữa để phóng đại những phẩm chất tốt đẹp của điều gì đấy với
những thái độ như thế, “Ôi người là người xinh xắn, toàn hảo trên thế giới,” sự
khao khát tham dục phóng chiếu trên những phẩm chất của đối tượng mà nó không
sở hữu. Trong thuật ngữ của Phật giáo, mong ước tham dục hay khát dục
đồng hành với “sự quan tâm sai lầm.”
Một ví dụ về sự quan tâm sai lầm hay sự suy nghĩ sai lầm, liên hệ
đến người phối ngẫu tình dục, là đang lưu tâm đến điều gì đấy nhơ uế như sạch
sẽ. Trên một mức độ tự nhiên hóa, nó được minh họa bằng thái độ, “Nếu nó
là chiếc ly của người yêu tôi, thì nó sạch. Tôi sẽ nhắp một hớp với
nó. Nếu nó là chiếc tách của người làm công, thì nó nhơ nhuốc; ngay cả
chạm nó vào môi tôi cũng thật là ghê tởm.” Nếu chúng ta nghĩ về nó, không
có gì khác biệt giữa ly và tách ở đây. Cả hai thứ đều là ly hay tách của
người nào khác mà người ấy đã nhắp môi uống rồi.
Hay nếu quý vị muốn giải thích bằng một thí dụ mãnh liệt hơn,
chúng ta có thể nghĩ thật là tuyệt vời nếu người yêu của chúng ta chạm lưỡi họ
trong miệng chúng ta khi họ hôn chúng ta, nhưng nếu người ấy lại nhổ nước bọt
trong miệng chúng ta, điều cũng rất là giống nhau, nhưng chúng ta sẽ thấy nó
ghê tởm làm sao đâu ấy. Chạm lưỡi họ trong miệng chúng ta trong khi hôn
là một thí dụ cả về sự thổi phồng những phẩm chất của điều gì đấy, làm cho nó
thành một hành động tình dục tuyệt hảo, và trong một sự lưu tâm sai lầm như nó
là sạch sẽ, hay ít ra là nó không dơ bẩn.
Một loại lưu tâm sai lầm khác là xem khổ đau như hạnh phúc.
Thí dụ, nếu người thương của chúng ta xoa bóp tay chúng ta, chúng ta cảm thấy
tuyệt vời. Nhưng nếu họ tiếp tục xoa bóp cùng một chỗ khoảng năm phút, nó
sẽ trở nên rất đau. Tuy thế, chúng ta có thể quan tâm nó là hạnh phúc và
không yêu cầu người thương chúng ta dừng lại. Hay chúng tôi chắc rằng tất
cả chúng ta có kinh nghiệm ôm chặc ai đấy và tay chúng ta rơi vào trong giấc
ngủ phía dưới một người. Nó sẽ trở nên rất khó chịu, nhưng chúng ta tiếp
tục nằm đấy bằng mọi giá. Hay chúng ta ôm ai đấy trong khi cố dỗ giấc ngủ
bên cạnh người ấy, và rồi thì chúng ta hoàn toàn không thoãi mãi và không thể
đi vào giấc ngủ, nhưng chúng ta không muốn buông người ấy ra, không ôm
nữa. Đó là “xem khổ não như hạnh phúc” – một thí dụ về sự quan tâm sai
lầm mà nó đồng hành với một sự ám ảnh hay dính mắc với sự tiếp xúc thân thể và
ôm ấp dục tình.
8- THAM DỤC SINH HỌC CHỐNG LẠI THAM DỤC ÁM ẢNH
Điều quan trọng để phân biệt ở đây là giữa sự tham dục ám ảnh và
tham dục sinh học. Đây là hai thứ hoàn toàn khác nhau. Nó giống với
thức ăn. Khi chúng ta có một sự đói sinh học, thõa mãn sự đói khát vì
thực phẩm không là tàn phá. Chúng ta có thể làm điều ấy mà không thổi
phồng phẩm chất ngon lành của thực phẩm hay có sự quan tâm sai lầm về nó.
Nhưng nếu chúng ta có một sự khao khát ám ảnh về một loại thực phẩm nào đấy,
chẳng hạn như sô cô la, và phóng đại nó thành một thứ ngọt ngào nhất trên thế
giới và rồi ăn ngấu nghiến với nó, đó là tàn phá. Nó sẽ đưa chúng ta đến
nhiều vấn nạn rắc rối: chúng ta trở nên quá cân béo phì và có thể làm cho chính
mình bệnh hoạn do ăn quá mức.
Cũng giống với dục tình. Sự khao khát sinh học bình thường
về tình dục căn cứ trên kích thích tố (hormone) khác với tham dục ám ảnh [dính
mắc] về nó. Đạo Phật không nói rằng thõa mãn tham dục sinh học, mà không
tô vẽ những phẩm chất tốt đẹp của nó, là tàn phá. Nhưng giống như việc ăn
uống, nó là một phần của luân hồi: nó là điều đến với sự hiện hữu một thân thể
luân hồi và sẽ làm nguyên nhân cho những vấn nạn rắc rối không thể tránh trên
một mức độ nào đấy. Ngay cả nếu chúng ta duy trì đời sống độc thân, xu
hướng của dục tình vẫn tiếp tục. Và nếu chúng ta không độc thân, rồi thì
chúng ta sẽ chẳng bao giờ có đủ tình dục. Có nó một lần sẽ không bao giờ
đủ, cũng giống như nếu chúng ta chỉ ăn một lần. Chúng ta muốn có nó lần
nữa và lần nữa. Do vậy, đó là một tình trạng luân hồi – một tình trạng
lập lại không thể kiểm soát mà chẳng bao giờ thấy thõa mãn. Điều đó rõ
ràng là một hình thức của khổ đau.
Thực tế, nếu chúng ta nhìn vào những lời nguyện của mật tông
tantric quan tâm về thái độ tình dục, điều chính là không xem tình dục như là
một con đường để giải thoát hay giác ngộ. Nó đơn giản là một hành vi luân
hồi! Dấn thân trong dục tình với ý tưởng thời đại rằng nếu chúng ta duy
chỉ có thể đạt đến một sự kích thích cực điểm lý tưởng, nó sẽ giải quyết tất cả
mọi vấn nạn rắc rối của chúng ta là một ví dụ tuyệt vời về việc chúng ta phá
hoại thệ nguyện tantric của chúng ta như thế nào. Hành động cách đó là
hoàn toàn mê mờ về thực tại và về ‘nhân quả hành vi’ [5]. Ngay cả chúng
ta không có những thệ nguyện mật tông tantric, tránh sự phóng đại về tình dục
sẽ cần thiết là sự tập trung cho hầu hết chúng ta như những hành giả Phật
giáo. Chúng ta sẽ không đi ra và hảm hiếp tất cả mọi người trong một
thành phố mà chúng ta chinh phục trong một cuộc chiến tranh.
9- SỰ PHÁT TRIỂN LỊCH SỬ CỦA ĐIỀU ĐƯỢC XEM NHƯ
THÁI ĐỘ KHÔNG THÍCH ĐÁNG CỦA TÌNH DỤC
Khi chúng ta nhìn vào chi tiết sự liệt kê của Phật giáo những loại
thái độ không thích đáng khác nhau về tình dục, chúng ta khám phá rằng nếu thực
hiện hành động tình dục hơn năm lần một cách liên tiếp được xem như tàn phá,
bởi vì nó là ám ảnh [vướng mắc]. Điều này bao hàm rằng nếu có việc ấy bốn
lần thì không gây ra ám ảnh [hay không vướng mắc]. Bây giờ, nó không qui
định một cách rõ ràng lời tuyên bố trên liên hệ đến năm hay bốn lần trong một
dãy suốt thời gian một người chạm trán với dục tình, hay đến bốn hay năm ngày
trong một dọc ấy. Nếu nó là vấn đề trước [tức là liên tục], như một số
người diễn giải, thì nó hàm ý một khái niệm kỳ lạ về cái gọi là ám ảnh hay
vướng mắc. Tương tự thế, thủ dâm hay hay hành động bằng miệng một lần là
tàn phá, cũng bởi vì đó sẽ là ám ảnh hay vướng mắc. Một cách rõ ràng, ám
ảnh hay dính mắc với tình dục là một vấn đề phức tạp và tiêu chuẩn văn hóa để
định nghĩa nó có thể được liên hệ.
Đề thấu hiểu vấn đề này, có thể lợi ích để nhìn lại sự phát triển
lịch sử trong văn học Phật giáo lưu tâm về vấn đề một hành tàn phá hay không
thích đáng về tình dục là gì. Một sự nghiên cứu như thế có thể cho chúng
ta một manh mối để diễn dịch về đạo đức tình dục Phật giáo như thế nào trong xã
hội hiện đại của chúng ta. Nhiều người Phật tử phương Tây muốn
duyệt xét hay sửa chửa lại một số khía cạnh về đạo đức Phật giáo cho thích hợp
với tinh thần của chúng ta ngày nay. Nhưng, chúng ta cần phải rất cẩn
thận trong một sự cố gắng để làm như thế. Nếu chúng ta làm việc ấy chút
nào chăng, chúng ta cần làm trên căn cứ kiến thức của mọi phạm vi hay cấp độ
những lời giáo huấn của Đức Phật về đạo đức và về việc chúng ta đã phát triển
về phương diện lịch sử cũng như đã được áp dụng trong những xã hội khác nhau ở
Á châu những vùng mà Phật giáo đã từng lan tỏa tới.
Trong những kinh luận buổi đầu của Pali và Phạn ngữ ở Tích Lan và
Ấn Độ, điều duy nhất được định rõ như thái độ quan tâm không thích đáng về tình
dục là có hành động ấy một đối tác không thích hợp. Sự nhấn mạnh là trên
một người phụ nữ không thích hợp. Họ bao gồm những người đàn bà đã
có chồng hay đã hứa hôn, hay những người bị hạn chế bởi những người khác, chẳng
hạn như người con gái bị ngăn giữ bởi cha mẹ hay nữ tu bị ngăn cấm bởi thệ
nguyện của họ. Nếu một người đàn ông định có hành động tình dục với những
loại người đàn bà này, động cơ sẽ thường là tham dục ám ảnh. Mặc dù người
đàn bà là một người không thích hợp để có hành động ấy với người đàn ông, thậm
chí bởi những tiêu chuẩn xã hội của thời gian và văn hóa, nhưng tuy thế bởi vì
sự khát dục của người đàn ông là quá kích thích, người ấy cứ nhất định thực
hiện hành động ấy với người đàn bà. Luận điển không đề cập đến về điều
người đàn ông đã có người phối ngẫu hay chưa hay về sự mong ước của người đàn
bà không thích hợp có thể là gì.
Vào cuối thế kỷ thứ nhất của kỷ nguyên hiện đại, một hội nghị kết
tập của Phật giáo lần thứ tư đã xãy ra ở Kashmir. Một triều đại Trung Á thống
trị một vùng từ Tây Bắc Ấn Độ đến Đông Ba Tư vào lúc ấy. Những đại biểu
từ những vùng Phật giáo mà hiện nay là A Phú Hản đến kết tập và báo cáo về
những phong tục nào đấy của văn hóa Ba Tư trong quê hương của họ rằng họ
thấy sự mâu thuẩn về tâm linh của đạo đức Phật giáo. Họ cảm thấy rằng
những đề cập rõ ràng thẳng thắn của họ cần thiết được bao hàm trong kinh luận
Phật giáo liên hệ đến đạo đức đang được kết tập lúc ấy. Bắt đầu từ thời
điểm này, những phong tục khác nhau căn cứ trên việc được xã hội tán dương
trong những nền văn hóa không phải Ấn Độ nào đấy lần lần được thêm vào một cách
chậm rãi đến danh mục của những loại thái độ tàn phá thí dụ như cái chết êm ái
và loạn luân. Mặc dù nhiều loại hành vi này đã từng xãy ra ở Ấn Độ rồi,
nhưng chúng chưa từng được thảo luận một cách công khai. Tuy thế, nghe
chúng trong những nền văn hóa ngoại quốc cung cấp hoàn cảnh để đề cập chúng một
cách rõ ràng thẳng thắn trong kinh luận Phật giáo, mà không đánh mất “bộ mặt xã
hội.”
Do thế, trong những dạng thức của thái độ tình dục không khôn
ngoan, danh sách đã bao quát những đối tác không thích hợp đã được mở rộng bao
gồm mẹ hay con gái của người ấy. Dần dần, những hình thức của thái độ
tình dục được thêm như biểu hiện không thích hợp. Thí dụ, những nơi nào đấy
của thân thể được liệt kê như không thích hợp cho sự giao hợp tình dục, chẳng
hạn như miệng và hậu môn, ngay cả với vợ của chính họ. Lý do căn
bản đằng sau điều này không nghi ngờ gì nữa rằng một nơi không thích hợp sẽ bị
thúc đẩy bởi một sự tham dục ám ảnh [tự kỷ ám thị]. Không thõa mãn với
hành động ở nơi thông thường của vợ người ấy, người ấy sẽ trở thành một người
khám phá và mạo hiểm tình dục, và cảm thấy rằng ngưởi ta phải thử nghiệm ở mọi
tư thế và mọi địa điểm nhầm để có thêm sự khoái lạc hơn nữa.
Những thời gian không thích hợp cho tình dục cũng đã được thêm
vào, chẳng hạn khi người phụ nữ thai nghén hay khi bà ta đang chăm sóc hay điều
dưỡng. Những bà mẹ luôn luôn ngủ với những đứa con của họ, và vì thế sẽ
không thích đáng để tách rời bà ta với đứa con nhằm mục đích dục tình, chẳng
hạn ở đền chùa; và những thời gian không thích hợp, chẳng hạng trong thời gian
bình minh hay lúc mà ai đấy có thể đi vào trong phòng của họ làm lúng túng
ngượng ngịu mọi người. Thậm chí ngày nay, trong những người Tây Tạng,
hiếm khi người náo khóa cửa họ lại khi họ ở trong phòng, và người Tây Tạng
chẳng bao giờ gỏ cửa trước khi bước vào. Đồng tính luyến ái và thủ dâm
chẳng mấy chốc cũng tham dự vào danh sách của thái độ tình dục không thích
đáng.
Khi kinh luận Phật giáo được chuyển dịch sang tiếng Trung Hoa,
những vợ lẽ, nàng hầu của người khác được thêm vào danh sách của những người
đối tác không thích hợp. Đây là một thí dụ rõ ràng về việc những dịch giả
và những vị đạo sư đã thay đổi những luận điển về đạo đức để chúng liên hệ đến
xã hội mới mà Phật giáo đã lan truyền đến. Truyền thống xã hội Trung Hoa
cho phép đàn ông có vài người vợ và nàng hầu. [Điều này là không thích
đáng]. Chỉ có hành động tình dục với nàng hầu của người nào khác là không
thích đáng. Ở Tây Tạng cũng thế, cả đa thê và đa phu được thể hiện
một cách thông thường. Có vài bà vợ hay vài ông chồng chẳng bao giờ được
xem như có hành động tình dục với những người phối ngẫu không thích đáng.
Qua khắp tiến trình này, điều luôn luôn xãy ra là ngày càng nhiều
thứ được thêm vào danh sách của những gì là không thích đáng. Ngày nay,
nhiều người trong chúng ta muốn có những thứ được xóa đi trong danh sách ấy,
nhưng thực sự những thứ về phương diện lịch sử đã luôn luôn được thêm
vào. Câu hỏi khó khăn với điều này, tuy thế, là có phải những sự thêm
thắt vào bị ảnh hưởng một cách xã hội và trước đấy, những hành vi đề cập không
bị xem là không thích hợp, hay có phải chúng luôn luôn được xem là không thích
đáng, nhưng duy chỉ không được đề cập một cách rõ ràng. Hay, có thể rằng
những sự thêm vào đấy được làm thành danh sách được quan tâm với một mục tiêu
đặc thù, chỉ khi những khó khăn sinh khởi trong những cộng đồng Phật giáo trên
những vấn đề nào đấy. Cuối cùng, điều này cũng là việc Đức Phật đã dần
dần mở rộng những thệ nguyện [hay giới điều] xuất gia như thế nào.
10 - THÁI ĐỘ TÌNH DỤC KHÔNG THÍCH ĐÁNG ĐỐI VỚI PHỤ NỮ
Nếu chúng ta hỏi những bổ xung xa hơn nữa là gì có thể cần được
thực hiện cho danh sách những loại thái độ dục tình dục không thích đáng để phù
hợp với Tây phương hiện đại, chúng ta có thể học thêm một bài học khác từ lịch
sử theo đúng nguyên bản của Phật giáo. Theo Luật tạng về giới điều xuất
gia, tu sĩ không được phép làm môi giới đến việc hôn nhân với những loại đàn bà
nào đấy. Danh sách những người phụ nữ như thế tương ứng với bảng liệt kê
những đối tác dục tình không thích đáng của những người cư sĩ. Trong
những luật tạng của năm trong mười tám nộ phái tiểu thừa mà chúng tôi đã kiểm
nghiệm, hai danh sách là không kể quan điểm của đàn ông và chỉ trình bày ngắn
gọn danh sách của những người đàn bà không thích hợp. Đây là luật tạng
của hai trong số ba truyền thống Tiểu thừa hiện còn ngày nay – PG Thượng Tọa Bộ
(Theravada - ở Tích Lan và Đông Nam Á) và Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ-
Sarvastivada (một chi phái của Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu
Bộ-Mulasarvastivada được những thành viên Tây Tạng và Mông Cổ duy trì).
Sự thiếu sót này không có nghĩa là theo hai truyền thống này, chỉ
có những người đàn bà không thích hợp cho người đàn ông và rằng không có điều
như một người đàn ông không thích hợp cho một người đàn bà. Nó chỉ là quy
luật đạo đức đã được viết nên trong hai truyền thống này duy từ quan điềm của
một người đàn ông. Ba truyền thống luật tạng khác, tuy thế, định rõ danh
sách những người đàn ông không thích đáng tương ứng đến danh sách những người
đàn bà không thích đáng. Điều ấy hàm ý rằng đạo đức tình dục quan hệ đến
những người liên hệ - đàn ông, đàn bà và v.v…- và cần được định rõ trong hình
thức của mỗi loại người. Căn cứ trên chứng cứ theo đúng nguyên văn đó,
thế thì, chúng tôi tin tưởng hoàn toàn có lý để thêm bất cứ danh sách nào về
những đối tác tình dục không thích đáng, những ai mà không thích đáng từ quan
điểm của phái nữ.
11- ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Cũng thế, bằng cùng mức độ lý trí giống nhau, những tài liệu trong
tất cả những truyền thống này đã được viết nên bởi một người đàn ông theo quan
điểm tình dục khác giới. Và vì thế nếu một người đàn ông theo quan điểm
tình dục khác giới đã có một người phối ngẫu rồi và sau đó, do bởi sự khát dục
ám ảnh và không thõa mãn đi khám phá và có quan hệ tình dục không chỉ với tất
cả các loại đàn bà dưới bảo hộ hay là người phối ngẫu của người nào khác ấy, mà
cũng là đàn ông với những con bò và ai biết điều gì khác nữa, rồi thì một
cách rõ ràng đó là tàn phá. Nhưng, thêm nữa, chúng tôi nghĩ rằng chúng ta
cũng có thể thay đổi toàn bộ hệ thống nói về những gì là thái độ dục tình tàn
phá hay xây dựng cho đàn ông hay đàn bà đồng tính luyến ái và cả những
người có quan hệ tính dục lưỡng giới. Đây là bởi vì việc có hành động
tình dục với những ai không phải là người phối ngẫu và v.v… sẽ cũng là tàn phá
đối với những loại người này. Hoàn toàn dường như là trong tinh thần của
những giáo huấn Phật giáo về tương duyên sinh khởi thừa nhận rằng bất cứ sự
hướng dẫn đạo đức nào cần phải được trình bày có hệ thống liên hệ đến mỗi một
nhóm mà nó có liên quan đến.
Thật là hấp dẫn, trong thời gian du hành của Ngài, Đức Đạt Lai Lạt
Ma đôi khi gặp gở với những nhóm đồng tính luyến ái, đặc biệt ở Nữu Ước và Cựu
Kim Sơn. Những nhóm này cực kỳ khó chịu về những sự trình bày thông
thường của Phật giáo về đồng tính luyến ái như một thái độ tình dục không thích
đáng. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng đáp lại rằng tự Ngài không thể viết lại
luận điển, mà Ngài nghĩ rằng điều này là môt loại vấn đề cần được thảo luận bởi
một hội đồng các vị Trưởng Lão Phật giáo. Chỉ một hội đồng như thế mới có
thể thay đổi những vấn đề liên quan đến luật tạng và đạo đức. Đức Đạt Lai
Lạt Ma đề nghị một chương trình quan tâm đến vấn đề bình đẳng cho phái nữ, đặc
biệt trong những nghi thức và lễ lược Phật giáo. Điều này cũng cần được
xem xét lại và thay đổi. Do thế, dường như Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nghĩ
có có thể có một số vấn nạn nào đấy và khai mở đến vấn đề trong sự trình bày
truyền thống về đạo đức tình dục của Phật giáo.
12 - NHỮNG VỊ TRÍ KHÔNG THÍCH ĐÁNG CHO TÌNH DỤC
Sự gồm cả miệng và hậu môn như những nơi không thích đáng cho hành
động tình dục không nghi ngờ gì nữa cũng hình thành trong tâm tư những người
đàn ông với quan điểm tình dục khác giới và đã có một người phối ngẫu phái
nữ. Từ quan điểm của Phật giáo, những người như thế sẽ bị thúc đẩy thỏa thích
trong hành động tình dục ở miệng và hậu môn do bởi chán chường và không thõa
mãn với hành động ấy ở bộ phận sinh dục. Ho có thể cảm thấy rằng hành
động tình dục thông thường hoặc là không đủ để đạt đến sự khoái lạc hay một
cách không đầy đủ để biểu lộ yêu thương và tác động. Trong cả hai trường
hợp, hạnh kiểm sẽ bị thúc đẩy bởi sự không thõa mãn, và một thái độ mà sẽ đưa
đến những vấn nạn không thể tránh.
Điều này trở thành một vấn đề phức tạp hơn nhiều, tuy thế, nếu
chúng ta xem xét những hình thức này về thái độ tình dục trong phạm vi của
những cặp đồng tính luyến ái. Vấn đề là những vị trí đó là không thích đáng bởi
tính tự nhiên, hay chỉ được xác định như không thích đáng cho những người nào
đấy trong những trường hợp nào đấy? Nếu chúng ta nói rằng những vấn đề đối với
miệng và hậu môn như những nơi dành cho hành động dục tình thì chúng không
sạch, thì sự phản đối này cũng sẽ đi đôi một cách tương ứng với bộ phận sinh
dục nữ. Điều này không là một vấn đề đơn giản.
Nhưng thế thì hoạt động tình dục ra sao đối với ai đấy bị liệt từ
cổ trở xuống? Hình thức duy nhất cho thái độ tình dục mà họ có thể có là
bằng miệng. Do vậy, một lần nữa, chúng tôi nghĩ rằng chúng ta cần làm sự
phân biệt về thích đáng và không thích đáng trong sự liên hệ với những nhóm đặc
thù của những cá nhân. Chúng tôi không nghĩ rằng chúng ta có thể nói rằng
nó là ám ảnh hay dính mắc cho ai đấy bị liệt từ cổ trở xuống để có hành động
tình dục bằng miệng.
13 –THỦ DÂM
Chúng tôi nghĩ rằng một sư tranh cải tương tự có thể được tiến hành
quan tâm đến sự thủ dâm. Người ta phải thấy vị trí Phật giáo truyền thống
lưu tâm đến điều này trong phạm vi xã hội nguyên thủy của nó. Trong Ấn Độ
cổ đại vào thời gian khi những quan điểm này về đạo đức được hình thành có hệ
thống, người ta kết hôn vào tuổi dậy thì hay thậm chí trước đấy. Do vậy, nếu
chúng ta kết hôn và quá bị ám ảnh với dục tình rằng hành động với người phối
ngẫu không đủ, chúng ta cũng cần thủ dâm, điều ấy sẽ được xem như một sự ám ảnh
hay vướng mắc với tình dục.
Tuy thế, ngày nay, những người ở phương Tây không kết hôn đúng vào
tuổi dậy thì, và một số người vẫn độc thân cho đến xế bóng cuộc đời hay ngay cả
trọn cuộc đời. Chúng ta cần nghĩ về vấn đề thủ dâm từ quan điểm của những
người như thế, những người hoàn toàn không có đối tác phối ngẫu hay những người
không ở trong một quan hệ tình dục với bất cứ ai. Nếu những sự lựa chọn
đang hổn tạp, không phân biệt, đi tới những người hành nghề tình dục
chuyên nghiệp, hay sống hoàn toàn độc thân, thế thì thủ dâm là một vấn đề hoàn
toàn khác biệt cho những người như thế hơn trong trường hợp một người đã lập
gia đình. Việc giống như thế cũng đúng liên hệ đến một người đã kết hôn
mà người phối ngẫu bị bệnh nặng và phải ở trong bệnh viện hàng tháng. Họ
đáng lý ra phải làm gì, đi tới một người hành nghề tình dục chuyên nghiệp
à? Không.
Thế nên, chúng tôi tin tưởng phù hợp với giáo lý Đạo Phật rằng mọi
thứ phải được quan tâm liên hệ đến một phạm vi. Điều này là bởi vì, hãy
nhớ rằng, điều gì làm nên một hành vi đạo đức trung tính luân hồi chẳng
hạn như có hành động tình dục tàn phá là sự thể hiện của nó bị thúc đẩy bởi một
cảm xúc phiền não – không thõa mãn, ám ảnh hay dính mắc với tình dục, và v.v…
Đó là những gì sẽ làm nguyên nhân cho những vấn nạn rắc rối. Thái độ tình
dục không pha lẫn với những cảm xúc ám ảnh phiền não thì sẽ không làm nguyên
nhân cho những thứ rắc rối cùng loại. Nó chỉ làm nguyên nhân cho những
vấn đề phổ biến mà chúng ta chẳng bao giờ hoàn toàn thõa mãn với nó, và không
nghi ngờ gì nữa chúng ta sẽ muốn làm lần này lần nữa – lần nữa và lần
nữa. Và chúng ta chẳng bao giờ bảo đảm rằng chúng ta sẽ cảm thấy thế nào
sau một hành động tình dục.
14 – HÀNH NGHỀ TÌNH DỤC CHUYÊN NGHIỆP
Một trong những điểm thú vị nhất trong sự trình bày truyền thống
của Phật giáo về cách cư xử không thích đáng của tình dục, nếu chúng ta đang
nhìn để thấy nó có thể được thúc đầy cho phương Tây hiện đại như thế nào, quan
tâm về những gì không được bao gồm, và làm thế nào điều này có thể ảnh hưởng
đến văn hóa. Thí dụ, quan tâm sự thảo luận về việc có hành vi tình dục
với một người hành nghề chuyên nghiệp. Trong những luận điển cả Ấn Độ lẫn
Tây Tạng, có hành vi tình dục với một người hành nghề chuyên nghiệp là không có
vấn đề gì sai trái, nghĩa là hoàn toàn okay, ngay cả đối với một người đàn ông
đã có gia đình, nếu người đàn ông chi trả cho người hành nghề ấy. Một
người hành nghề tình dục chuyên nghiệp là một đối tác không thích đáng
chỉ nếu khi người nữ ấy là của ai khác và chính bạn đã không chi trả cho người
đàn bà ấy. Thậm chí khó xử hơn là nếu cha mẹ không cho phép con gái của
họ có hành vi tình dục với ai đấy, thế thì người con gái ấy là một người không
thích đáng đề có hành vi tình dục. Nhưng nếu cha mẹ cho phép – như đôi
khi xãy ra ở Á châu khi những ông cha bà mẹ nghèo bán những đứa con gái của vào
trong thanh lâu – thật không có lời nào đề nói.
Cũng thế, như đã lưu ý phía trước, những dịch phẩm bằng tiếng
Trung Hoa đã thêm, một đối tác tình dục không thích đáng là tì thiếp của ai
đấy. Điều này hàm ý rằng hoàn toàn không sai trái, hoàn toàn okay
cho một người đàn ông đã có gia đình có hành vi tình dục với tì thiếp của chính
họ. Và trong những người Tây Tạng, điều cũng hoàn toàn đúng đắn, okay, dề
có nhiều hơn một bà vợ hay nhiều hơn một ông chồng. Thực tế, dường như
rằng hoàn toàn đúng đắn đề một người đàn ông đã có gia đình có hành vi tình dục
với bất cứ người đàn bà nào không rơi vào trường hợp một người đối tác không
thích hợp, chẳng hạn như một người đàn bà độc lập chưa kết hôn, một người chưa
hứa hôn cũng không phải là một nữ tu.
Thật khó cho chúng ta thấu hiểu tác dụng tinh thần phía sau điều
này. Hoặc là tất cả những điều này là có thể chấp nhận một cách hoàn toàn
trong những xã hội này và tất cả những người phụ nữ cảm thấy hoàn toàn tốt đẹp
bình thường về việc những ông chồng của họ có hành vi tình dục với những người
đàn bà khác, hay những người đàn bà đã kết hôn không cảm thấy khả quan về điều
này, nhưng đã giữ sự im lặng. Nhưng chắc chắn điều đó không phải là
trường hợp trong thế giới hiện đại ngày nay. Và vì thế, một lần nữa,
dường như là danh sách của thái độ tình dục không thích đáng cần được mở rộng,
đúng hơn là giao ước, để bao gồm tất cả những hình thức quan hệ tình dục mà đã
làm nên những vấn nạn rắc rối, là tàn phá, và bị căn cứ trên sự ám ảnh hay dính
mắc.
15 – SỰ KHÔNG HÀI LÒNG VỚI TỈNH DỤC VÀ MONG ƯỚC ĐA DẠNG
Thế rồi, những vấn đề với thái độ không thích đáng với tình dục
không chỉ là sự quan tâm không đúng đắn và mê mờ rối rắm, chẳng hạn như chúng
ta lưu ý đến những chỗ nào đấy trên thân thể, nhưng nó lại được xem xét nhiều
hơn về sự không hài lòng và thể hiện sự thèm khát quá độ. Chúng ta muốn
khám phá và kinh nghiệm hơn và nhiều hơn nữa. Hầu hết mọi người biết rằng
hậu môn là không phải là một nơi sạch sẽ, và rằng có hành động tình dục nơi ấy
có thể nguy hiểm theo quan điểm về sức khỏe. Cho nên vấn đề là ám ảnh: sự
thõa mãn và ám ảnh. Do bởi thế, chúng tôi nghĩ chúng ta cần mở rộng danh
sách của thái độ không thích đáng để bao gồm những thứ như vậy như một sự đam
mê trong những hành động tình dục nguy hiểm cao độ, lao vào trong hành động mà
trong hành động ấy chúng ta có thể lây lan hay mắc phải một chứng bệnh truyền
nhiễm về tình dục, và v.v…
Cũng thế, khi nói về vấn đề tình dục và sự không thỏa mãn, chúng
ta cần giữ phạm trù văn hóa trong tư tưởng. Nếu chúng ta nhìn vào những
người bình dân Ấn Độ hay Tây Tạng, thí dụ thế, hầu hết những người này toại
nguyện để ăn uống cùng một thứ giống nhau mỗi ngày trong đời sống của họ - như
cơm gạo và đậu lăng [6] hay mì-bún nước. Những người Tây phương hiện đại
không có khuynh hướng tương tự như thế. Người Tây phương hiện đại thích
cá biệt [7] và họ thích có đa dạng. Nó là một phần trong nền văn hóa của
chúng ta. Do thế, giống như điều đi với sự tôn trọng bản năng tình dục,
cũng giống như thực phẩm. Nếu điều bình thường trong xã hội chúng ta là
ăn uống cùng giống một thứ mỗi ngày, rồi thì nếu chúng ta muốn ăn điều gì ấy
khác hơn, điều ấy sẽ bị xem như một trường hợp thể hiện tham muốn quá độ và bị
ám ảnh về thực phẩm. Điều ấy có thể hiểu được, rồi thì, một xã hội như vậy
sẽ có một thái độ giống như vậy đối với tình dục.
Ý chúng tôi muốn nói rằng đáng lý chúng ta phải có một hình thức
giao ước hổ tương nào đấy về cung cách ứng xử tình dục với một đối tác. Dĩ
nhiên, chúng ta có thể mở rộng điều này để đem vào mối quan tâm về sự liên hệ
mà chúng ta đã thảo luận phía trước. Chúng ta có một cách để có hành động
tình dục với người phối ngẫu hay đối tác của chúng ta, cho dù người ấy là người
khác giới hay đồng tính, cho dù chúng ta hay người đối tác của chúng ta bị đờ
người ra, hay thậm chí cho dù chúng ta không có người đối tác và hình thức tình
dục của chúng ta là thủ dâm. Nếu chúng ta có một phương pháp chuẩn mực
thích ý hơn về hành động tình dục,thế thì từ quan điểm văn hóa truyền thống Á
châu, muốn có điều gì khác hơn sẽ chỉ là do bởi tham muốn quá độ hay bị ám ảnh
với tình dục.
Dĩ nhiên, nếu điều ấy liên hệ hình thức tình dục là một thứ sản
sinh nhiều đau đớn và tổn thương đến người khác hay cho chính chúng ta, một
loại nào đấy của tình dục bạo hành [8] – trong tài liệu họ nói về hành động
tình dục trên nền lạnh-ướt với sỏi đá phía bên dưới họ, trong khi ở phương Tây
chúng ta tưởng tượng nhiều hơn với chủ nghĩa tình dục bạo hành – điều đó dĩ
nhiên không phải là một hình thức tình dục lành mạnh. Điều đó là tàn phá.
Nhưng, đưa ra như thế để thấy, chúng ta có một hình thức ưa thích hơn thực hiện
một hành động tình dục với ai đấy mà không tổn hại như thế, tuy thế, đối với
những người phương Tây, chúng ta thích một số đa dạng trong đời sống tình
dục. Điều ấy không có nghĩa là có một hình thức đa dạng những người đối
tác hay phối ngẫu, nhưng là một sự đa dạng trong phương pháp biểu lộ tình yêu
và sự tác động của chúng ta và có một sự thích thú với người ấy. Thế nên,
dường như đối với chúng tôi rằng chúng ta nên mang điều ấy vào trong sự lưu tâm
trong sự nói về điều gì là tàn phá từ quan điểm của phương Tây. Chúng tôi
nghĩ rằng chúng ta cần thực hiện một sự khác biệt giữa sự mong ước văn hóa
thông thường của chúng ta cho sự đa dạng, mặt khác, và là ám ảnh và sự cố gắng
ngay bất cứ điều gì do bởi sự không thõa mãn và buồn chán, đối với một số khác.
Mặc dù vấn đề tình dục cần được quyết định một cách hổ tương
trong quan hệ đôi lứa, câu hỏi là, “Những giới hạn của chúng là gì? Những
kiểu thức của tình dục có thể bao gồm cái gọi là “những vị trí không thích
đáng” hay không? Nhưng trong mọi trường hợp, bất cứ những điều giới hạn
gì đấy có thể, khi chúng ta đã hoàn toàn không thõa mãn và bị ám ảnh, và vượt
xa chúng, thế thì chúng ta bắt đầu gợi đến thái độ tình dục ở những vùng rắc rối
và tàn phá. Đấy là ý kiến cá nhân của chúng tôi.
16 – NHẤT HẠNH THIỀN SƯ VÀ NHỮNG HƯỚNG DẪN LIÊN HỆ ĐẾN THÁI ĐỘ
TÌNH DỤC KHÔNG THÍCH ĐÁNG
Nhất Hạnh Thiền Sư, một đạo sư Phật giáo Việt Nam, đã có một hướng
dẫn rất thú vị và chúng tôi nghĩ là hữu ích về sự quan tâm đến đạo đức tình dục
Phật giáo. Trong sự lưu ý rằng chúng ta không có những hôn ước do cha mẹ
quyết định, như hầu hết những người ở Á châu vẫn làm, và rằng chúng ta lựa chọn
người phối ngẫu của chính chúng ta và rằng nhiều người trong chúng ta đã có
hành động tình dục trước khi kết hôn, Ngài nói rằng một đối tác không thích
đáng sẽ là người nào đấy mà với họ chúng ta không có ý định để dành trọn cuộc
đời với họ, nếu chúng ta có hành động ấy. Nói cách khác, nếu chúng ta sắp
có hành động tình dục với ai đấy, nó phải nên là với người nào mà, nếu chúng ta
cần thiết, chúng ta sẽ tự nguyện hay sẳn sàng để dành trọn cuộc đời chúng ta
với người ấy, hãy nói rằng nếu người ấy có mang, và v.v… Và chúng ta sẽ vui vẻ
hạnh phúc để hành động như thế và không chỉ để biểu lộ một ý nghĩa của bổn
phận. Nó không có nghĩa là chúng ta thật sự phải dành trọn cả cuộc đời
chúng ta với người này (nhưng chúng ta sẽ không nên nghĩ đến chuyện tình dục
với những ai mà chúng ta không tính đến chuyện hôn nhân). Cũng thế, thí
dụ về thai nghén chỉ là một thí dụ, bởi vì rõ ràng có những người lớn tuổi hơn
không còn có khả năng đề có con cái nữa, nhưng họ thật sự tiến hành trong hành
vi tình dục với người phối ngẩu hay đối tác của họ. Sự hướng dẫn tương tự
sẽ được áp dụng.
Mặc dù chúng tôi không biết về bất cứ sự liên hệ kinh điển nào làm
nền tảng cho vấn đề này, nhưng chúng tôi nghĩ đây là một hướng dẫn rất hữu ích
cho thời kỳ hiện đại của chúng ta. Nó có nghĩa là chúng ta cần tránh có
những hành vi tình dục vô tình hay vô ý tứ với bất cứ người nào mà chúng ta gặp
gở một cách tình cờ, do bởi sự ám ảnh tình dục của chúng ta, và không thật sự
quan tâm đến người khác ấy hay về sự có một quan hệ sâu xa hơn với người
ấy. Trong hầu hết mọi trường hợp, sự hướng dẫn này cũng sẽ được áp dụng
đối với vấn đề hành động tình dục với những người hành nghề chuyên
nghiệp. Dĩ nhiên, mặc dù có thể có trường hợp mà trong ấy một mối quan hệ
nghiêm chỉnh hứa hẹn tình yêu phát triển với một người hành nghề tình dục
chuyên nghiệp.
17 – ĐỪNG ĐÁNH GIÁ CAO TÌNH DỤC
Quan trọng là đừng đánh giá cao tình dục. Thí dụ, giả sử
động cơ của chúng ta là muốn tặng ai đấy một niềm hạnh phúc và vui thú tạm thời
như một sự biểu lộ của tình yêu, và không chỉ cho người khác, mà cho cũng cho
cả chúng ta. Thế thì, cho đến khi nào chúng ta không phủ nhận một cách
khờ dại những băn khoăn đi cùng với nó và hiện thực những gì trong thân thể của
ai đấy – và một lần nữa, cho đến khi chúng ta vẫn ở trong một khuôn khổ quyết
định hổ tương của những ranh giới với người ấy – thế thì một cách cá nhân chúng
tôi nghĩ rằng điều này không phải là một hành vi tàn phá kinh khiếp, ngoại trừ
vì nó làm cho vòng sinh tử luân hồi không thể chấm dứt. Thực tế, có loại
quan hệ tình dục lành mạnh này có thể có một tầng cấp phát triển tích cực cho
ai đấy trong những hình thức phát triển một thái độ của ban tặng và chăm sóc,
và biểu lộ lòng yêu mến cùng quan tâm.
Ngay cả xem xét về sự thủ dâm, nhiều nhà tâm lý học phương Tây nói
rằng đấy là một bộ phận của sự phát triển lành mạnh của trẻ con. Nếu
những người thanh niên nam nữ đến tuổi tiếp cận với hoạt động tình dục của họ,
và có thể biểu lộ sự cảm xúc đến chính họ và và thư giản cùng vui thích nó,
điều ấy hổ trợ người ấy thích thú và có thể liên hệ tình dục trong một phương
pháp lành mạnh hơn với những người khác. Đấy hoàn toàn là quan điểm của
Tây phương, nhưng chúng tôi nghĩ nó có một giá trị nào đấy, đặc biệt nếu chúng
ta đem nó vào sự quan tâm về cung cách nuôi dưỡng trẻ con của chúng ta.
Những trẻ con Tây phương hầu như không có sự tiếp xúc thân thể liên tục mà một
bé con Á châu truyền thống có. Hầu hết những bà mẹ Á châu truyền thống
địu con trên lưng họ suốt cả ngày và ngủ với chúng vào ban đêm. Những trẻ
con Tây phương, trái lại, có đặc trưng tiêu biểu là để con trẻ một mình trên
chiếc giường cũi hay trên chiếc xe đẩy, và nhiều người trong chúng ta cảm thấy
xa lạ với thân thể của chúng ta. Thủ dâm, thế thì, là một bước khả dĩ để
vượt qua sự xa lạ đấy. Nhưng một lần nữa, điều quan trọng là không đánh
giá quá cao toàn bộ lĩnh vực của bản chất của tình dục.
18 – SỢ HÃI TÌNH DỤC
Bây giờ, một câu hỏi có thể được đặt ra, là nếu chúng ta bị ám ảnh
chống lại với dục tình? Nói một cách khác, là về ai đấy sợ hãi tình dục
hay lãnh cảm? Một thái độ như thế cũng là không lành mạnh, chúng tôi tin
như thế. Nó cũng làm những rắc rối.
Nhưng chúng ta cần làm nên một sự khác biệt ở đây. Sợ hãi
giết hại và sợ hãi tình dục không giống nhau. Thí dụ, nếu ai đấy sợ hãi
giết hại, điều ấy không bao hàm rằng không phải lành mạnh hơn cho những ai giết
hại. Vì thế, chúng tôi nghĩ chúng ta cần phải phân biệt giữa một sự sợ
hãi ám ảnh về khao khát sinh lý đối với tình dục và sự sợ hãi bị ám ảnh với
tình dục. Điều gì là không lành mạnh, chúng tôi nghĩ, là nỗi sợ hãi về sự
lèo lái của sinh lý.
Đây là điểm quan trọng trong hình thức của những người quyết định
tiếp nhận thệ nguyện hoàn toàn độc thân như một sư thầy hay một sư cô.
Nếu chúng ta từ bỏ tình dục căn cứ trên cảm giác rầng mọi hình thức tình dục
đều là tàn phá và hoàn toàn kinh khủng với chúng, thế thì thái độ này không
nghi ngờ gì nữa sẽ sản sinh nhiều rắc rối. Chúng ta có thể thấy điều
ấy. Thái độ này rất thông thường đối với những tu sĩ nam nữ, không chỉ
trong truyền thống Phật giáo mà trong những truyền thống Ki Tô giáo của chúng
ta cũng vậy, làm chúng rất rất là cứng nhắc, nhồi nhét đầy với tội lỗi, và tất
cả những thứ loại này. Họ cảm thấy tội lỗi với những thèm khát tình dục
sinh lý của họ.
Nhưng từ quan điểm Phật giáo, điều gì sẽ thích đáng hơn là để sợ
hãi một sự ám ảnh của chính mình về tình dục. “Sợ hãi” (fear), ở đây,
không là một chữ đúng. Sợ hãi cũng không là một động cơ lành mạnh nhất,
vì nó bao hàm việc thực hiện một điều gì chắc nịch lớn lao biểu lộ một sự ám
ảnh. “Khiếp sợ” (dread) là một chữ khá hơn, vì chúng bao hàm đơn thuần
một niềm ao ước mạnh mẽ để không có sự ám ảnh này. Nếu một người muốn
chiến thắng sự ám ảnh với tình dục và vì thế quyết định trở thành một vị sư cô
hay sư thầy, điều đó hoàn toàn khác biệt. Đấy là một thái độ lành mạnh
hơn. Những cá nhân như thế sau đó trở thành một vị sư cô hay sư thầy bởi
vì họ không muốn bị làm sao lãng bởi những nghĩa vụ gia đình, và v.v…, và họ
muốn ở trong một tình trạng mà sự tham dục của họ sẽ là tối thiểu. Họ
không muốn những hoàn cảnh bên ngoài chung quanh có thể kích thích tình dục đến
họ.
19 – PHÁ THAI
Bây giờ những vấn đề cuối cùng mà chúng tôi muốn nói một ít về
liên hệ tình dục là những vấn đề kiểm soát sinh sản và phá thai. Khi
chúng ta nói về phá thai, từ quan điểm của Phật giáo, nó rơi vào phạm trù của
một hành vi tàn phá của sự lấy đi một mạng sống. Không phủ nhận rằng;
điều ấy là đang quyết định đời sống của một chúng sinh. Tuy nhiên, có
nhiều loại động cơ khác nhau liên hệ với việc lấy đi một mạng sống. Nếu
động cơ liên hệ đến sự vị kỷ, như không muốn bổn phận chăm sóc đứa bé, hay không
đánh mất thể diện một người, hay điều gì ấy giống như thế, điều này làm cho nó
trở một hành động tàn phá nặng nề về sát sinh. Đây là do bởi cả động cơ
và hành động tự nó là tàn phá.
Do thế, nếu chúng ta thật sự cần để nhìn vào động cơ nguyên nhân ở
đây. Lý do là gì mà có thể thúc đẩy chúng ta có một vụ phá thai?
Động cơ của chúng ta có thể là ngu ngơ, nghĩ rằng chúng ta không thể cho đứa bé
một ngôi nhà tốt lành, hay chúng ta không thể cưu mang thêm một đứa bé
nữa. Nhưng, có thể cha mẹ chúng ta hay những người thân nhân khác có thể
cho đứa bé một mái ấm, hay chúng ta có thể cho đứa bé làm con nuôi.
Trái lại, động cơ của chúng ta có thể là tích cực của lòng từ
bi. Nếu đứa bé sẽ là tật nguyện nghiêm trọng hay tâm thần khiếm
khuyết, thế thì mong ước đứa trẻ trành tất cả những vấn đề rắc rối cùng khổ đau
mà nó có thể mang lấy, chúng ta có thể nghĩ đến việc phá thai. Cuối cùng,
có một nguyện phụ của bồ tát giới là tránh không để xãy ra một hành động tàn
phá khi động cơ là từ ái và bi mẫn. Tuy vậy, trong trường hợp như
thế chúng ta cần tự nguyện một cách toàn thiện để chấp nhận trên chính chúng ta
bất cứ những hậu quả khổ đau mà chính chúng ta có thể trãi qua trong những kiếp
sống tương lai nhầm đề miễn cho đứa bé chưa sinh khỏi những khổ đau của nó.
Với một thái độ như thế, những hậu quả khổ đau của hành vi tàn phá về việc lấy
đi một mạng sống sẽ bớt mãnh liệt hơn.
Tuy nhiên, điều này thật là phức tạp, vì chúng ta không hề biết
đứa bé sẽ hạnh phúc hay không, và chẳng hề rõ rằng đứa trẻ có thể vượt thắng sự
tàn tật của nó bao nhiêu. Cũng thế, thật khó khăn để có từ ái và bi mẫn
như hành vi đơn độc hạn chế của chúng ta. Nó có thể pha lẫn một cách dễ
dàng với lòng mong ước vị kỷ để tránh tất cả những vấn nạn và khổ đau mà chúng
ta sẽ có như ông cha bà mẹ của đứa bé tàn tật đó.
Một hoàn cảnh rất khó khăn là khi chúng ta phải chọn lựa giữa cứu
lấy mạng sống của chính chúng ta như một sản phụ hay bào thai ấy. Nếu qua
sự thai nghén hay thậm chí tiến trình thật sự của sinh sản, sẽ dẫn đến cái chết
của chúng ta như bà mẹ, theo ý kiến của y khoa, nên động cơ nguyên nhân của
chúng ta đối với sự phá thai có thể để cứu lấy mạng sống của chính chúng
ta. Mặc dù, qua sự xác định, một động cơ như thế là sự tự quan tâm trên
sự quan tâm cho đứa bé chưa sinh, mỗi trường hợp sẽ khác nhau đôi
chút. Thế nên, nhiều nhân tố và trường hợp sẽ tác động đến việc
quyết định tính chất nặng nề của những hậu quả nghiệp báo sẽ đi theo nó.
Mặc dù có nhiều động cơ nguyên nhân có thể liên hệ, giáo huấn Phật
giáo nói rằng điều thật sự ảnh hưởng tính chất nặng nhẹ của những hậu quả
nghiệp báo là động cơ hiện tiền của chúng ta. Do thế, nếu chúng ta thật
sự quyết định phá thai cho bất cứ lý do nào, chúng ta cần phải cẩn thận đến
những gì đang diễn tiến trong tâm thức và trái tim của chúng ta ngay khi bắt
đầu giải phẩu. Điều ấy thiết yếu hơn những gì thúc đẩy chúng ta đến trạm
xá.
Thí dụ, quan tâm trường hợp của cô bé 13 tuổi, người bị mang thai
như một kết quả của sự lạm dụng tình dục của cha cô. Cô gái
và gia đình có thể quyết định qua những sự phức tạp khổ tâm về những lý do để
chấm dứt việc thai nghén. Điều mà chúng tôi đang cố gắng nhấn mạnh ở đây
là thái độ của gia đình, và đặc biệt ở cô gái, tại thời điểm phá thai. Quan
trọng rằng đó không là một thái độ của thù hận và ghét bỏ, một cách đặc biệt
không có thái độ ấy đối với đứa bé đang bị phá thai. Đấy không là lỗi của
đứa bé.
Và do vậy, điều rất quan trọng lúc xãy ra vụ phá thai là phải có
lòng từ ái đối với đứa bé đang bị làm cho sẩy thai. Người ta cần nguyện
ước nó được tốt lành trong kiếp sống tới và, trong một ý nghĩa là, xin lỗi cho
hiện trạng đã phát sinh. Điều ấy không làm vấn đề phá thai thành một hành
động tàn phá. Giết hại là giết hại. Nhưng nó giảm thiểu tối đa một
cách chắc chắn những hậu quả khổ đau mà có thể tiếp theo đấy. Ở mức độ
tối thiểu, chúng tôi nghĩ rằng cho một người đàn bà có một vụ phá thai là hầu
như có thể và không phải có khổ đau có tính chất ức đoán sau này, “Đứa bé
ấy giống như thế nào? Nếu đứa bé ấy sống nó sẽ vào khoảng tuổi ấy tuổi ấy bây
giờ.” Một cách chắc chắn, chúng tôi nghĩ rằng hầu hết mỗi người đàn bà
từng có phá thai đã có một loại khổ đau như vậy. Thế nên, ngay cả trong
kiếp sống này, chúng ta có thể thấy rằng phá thai là một hành vi tàn phá, vì nó
là nguyên nhân khổ đau. Cuối cùng, định nghĩa của một hành động tàn phá
là nó chín muồi thành khổ đau cho người đã thực hiện hành vi ấy.
Một số truyền thống Phật giáo hướng dẫn những nghi lễ cho những
bào thai bị phá, điều gì ấy tương tự như một lễ tang. Điều là hữu ích vô
cùng cho bà mẹ, toàn thể gia đình, và một cách chắc chắn cho thai nhi.
Nếu căn cứ trên sự tôn trọng cho cá thể này như một chúng sinh. Người ta
đặt tên và gởi nó với những lời cầu nguyện cho sự tốt đẹp trong những kiếp sống
tới của nó. Những người phụ nữ đã từng làm việc ấy, nó rất hữu ích, và có
tác dụng hổ trợ tinh thần.
20 – KIỂM SOÁT SINH SẢN
Vấn đề phá thai liên kết với vấn đề kiểm soát sinh sản. Câu
hỏi thật sự ở đây là, “Đời sống bắt đầu khi nào?” Từ quan điểm của phương
Tây, chỉ khi phôi thai ở khoảng hai mươi mốt ngày tuổi thì vấn đề thân thể vật
lý của phôi thai mới phát triển một cách đầy đủ nên nó có thể hổ trợ sự chuyển
vận thần kinh tin tức . Người ta có thể chứng tỏ rằng đây là sự bắt đầu
của đời sống, vì, trong một cảm nhận, đây là sự bắt đầu của hành vi tinh
thần. Trái lại, theo quan điềm của Phật giáo, sau sự tiếp diễn của tâm
thức vi tế của ai đấy đã chết sẽ chuyển qua một thời điểm trung ấm, giai đoạn
trung gian [9], đời sống kế tiếp của nó bắt đầu khi nó liên kết với cơ thể vật
chất của thân thể kế tiếp của nó.
Thế thì câu hỏi là, “Trong sự giải thích của Phật giáo, khi nào sự
liên kết ấy xãy ra?” Sự giải thích của truyền thống Phật giáo là tâm thức
của thân trung ấm của kẻ sẽ được tái sinh đi vào trong miệng của người cha
tương lai, đi xuống qua thân thể của người cha, đi vào tinh trùng của ông cha,
và rồi chuyển nó đi vào trong thân thể của người mẹ tương lai. Bây giờ,
vấn đề này là điều gì ấy mà rõ ràng cần được giải thích. Sự giải thích
này xuất phát từ Tantra Bí mật (Guhyasamaja Tantra), và cho biết vì thế tiến
trình đề phát sinh mạn đà la của những bổn tôn trong thai tạng của nữ bổn tôn
phối ngẫu quán tưởng là tương tự như trong tiến trình tái sinh. Nhưng có
phải sự diễn tả này được diễn dịch một cách đúng đắn như sự giải thích về sự
bắt đầu của một đời sống như thế nào hay không?
Như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng nói nhiều lần rằng, nếu những nhà
khoa học có thể chứng minh những sự giải thích nào đấy của Phật giáo là sai,
Ngài rất vui lòng để phế bỏ chúng và tiếp nhận sự giải thích của khoa
học. Do vậy, chúng ta cần thể nghiệm với luận lý học về sự trình bày của
Phật giáo đối với điều: một đời sống bắt đầu như thế nào và khi nào.
Chúng ta giải quyết những câu hỏi này sẽ có quan hệ mật thiết sâu rộng với đạo
đức như thế nào. Rõ ràng, nếu tâm thức của một đứa bé tương lai đã sẳn có
trước ở đấy trong tinh trùng ngay cả trước khi thụ thai [10], sau đó bất cứ
hình thức nào của sự kiểm soát sinh sản hay phá thai. Nhưng rồi thì, sự
kiện mà một trứng có thể không được thụ tinh là gì? Và ngay cả nếu nó
thật sự thụ tinh, nó có thể không đi xuyên qua bức tường tử cung. Có thể
tâm thức bằng cách nào đấy biết điều gì sẽ xãy ra trước khi nó đi vào miệng của
người cha nó hay không? Hay có phải có một loại cơ chế nghiệp báo nào đó
bởi đấy nó không đi vào cửa miệng của người cha ngoại trừ có nghiệp báo chắc
chắn mà sự thụ thai thành công sẽ xãy ra? Và về sự thụ nhân tạo, những
đứa bé trong ống nghiệm, và sinh sản vô tính (cloning) là thế nào?
Những điều này trở nên khó khăn để giải thích với giáo lý Đạo Phật, ngoại trừ
chúng ta phân loại chúng dưới những đặc trưng về sinh sản từ sức nóng và nước.
Càng khảo sát về sự bắt đầu của đời sống, chúng càng trở nên phức
tạp hơn. Theo sự giải thích Phật giáo của mười hai khoen nhân duyên, khi
tâm thức của chúng sinh tương lai đi vào căn vật chất của thân thể tương lai
của nó, nó chỉ đơn thuần có khả năng cho hành vi tinh thần. Hành vi ấy
chưa thực hiện chức năng. Chỉ trong khoen thứ hai, được gọi là những khả
năng (hành) với hay không cùng với sắc, thực hiện những khả năng của ý thức bắt
đầu hoạt động, từng bước một, và bắt đầu thực hiện chức năng. Có
phải điều này có nghĩa là tất cả những trứng thụ tinh có khả năng để phát triển
thành một đứa bé, hay chỉ có một số mà thôi? Nếu chỉ có một số, thế thì
từ một quan điểm của khoa học, điều gì cần thiết được trình bày để phân biệt
những trứng nào có khả năng phát triển và những trứng nào thì không, thí dụ
những trứng không thâm nhập vào trong bức màng của tử cung? [See: The Twelve Links of Dependent Arising.] [11] .
Thế nên, chúng ta có thể thấy rất khó để trả lời câu hỏi, “Khi nào
tâm thức thật sự đi vào vật chất cơ thể của sự tái sinh kế tiếp do thể nếu
chúng ta kết liễu sự tái sinh sau thời điểm ấy, đấy là sự lấy đi một mạng
sống?” Cũng thế, từ quan điểm của Phật giáo, nếu sự tránh thụ thai xãy ra
trong một cách như thế, nó sẽ ngăn ngừa tâm thức khỏi sự đi vào vật chất cơ thể
của sự tái sinh kế tiếp, thế thì nó không phải là vấn đề lấy đi một mạng
sống. Vấn đề đạo đức về sát sinh, thế thì, không có làm gì với nó, [không
có giết hại trong trường hợp này]. Người ta chỉ cần xem xét thái độ tình
dục không thích đáng.
Cũng thế, trong những dạng thức của thái độ tình dục không thích
đáng, chúng ta cần tránh tính khả dĩ của sự truyền nhiễm bệnh tật qua tình
dục. Có phải điều này có nghĩa là tất cả mọi người với những chứng truyền
nhiễm như vậy cần được duy trì độc thân suốt cuộc đời của họ, ngay cả những
người mắc bệnh mụn giộp (herpes)? Nếu dùng bao cao su là phi đạo đức,
ngay cả cho những người như vậy, thế thì sự lựa chọn duy nhất cho những người
đó là duy trì sự độc thân.
Như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng nói, những vấn đề về phá thai và
ngừa thai cần rất nhiều sự nghiên cứu sâu xa hơn trước khi bất cứ điều gì có
thể được quyết định. Thế nên, cho dù chúng ta xử dụng phương pháp ngừa
thai hay không, một lần nữa chúng ta trở lại cùng vấn đề trước đây. Động
cơ là gì? Có phải chúng ta đang xử dụng phương pháp ngừa thai vì thế
chúng ta có thể hoàn toàn say đắm trong sự ám ảnh hay dính mắc của chúng ta với
tình dục? Thế thì, một cách chắc chắn, thái độ tình dục của chúng ta là
tàn phá. Nhưng, trong trường hợp như thế, sự tàn phá do bởi sự ám
ảnh hay dính mắc với tình dục, chứ không phải vì sự ngừa thai (nghĩa là
chúng ta ngừa thai để thõa mãn với hành vi tình dục).
21- TÓM LƯỢC
Tóm lại, toàn bộ vấn đề tình dục trong Phật giáo suy đi nghĩ lại
xoay quanh vấn đề của những loại thái độ và động cơ mà chúng ta phải quan tâm
về nó và điều nào trong những vấn đề này là tàn phá và sẽ đem đến những vấn nạn
rắc rối. Nếu chúng ta muốn tránh những vấn nạn này, chúng ta cần
tránh những thái độ tàn phá.
Như chúng tôi đã nói trước đây, chúng tôi nghĩ một trong
những vấn đề mà có thể hổ trợ rất nhiều là có một thái độ thực tiển về tình dục
và không thực hiện hay cho phép điều ấy xãy ra trong diện rộng. Thực hiện
hành vi tình dục không hoàn toàn không giống như ăn uống. Có điều gì hơn
thế ấy chứ không chỉ là việc đáp ứng cho đòi hỏi sinh lý. Nó là một
phương sách để biểu lộ tình cảm, tình yêu, sự quan tâm, thoãi mái, và v.v… Nhưng
một lần nữa, nếu chúng ta nghĩ rằng có một đời sống tình dục tốt đẹp là sẽ giải
quyết tất cả những vấn đề của mọi người, thì điều đó là khờ dại. Nhưng
trái lại, nghĩ rằng có điều gì vốn dĩ là “xấu” về nó thì cũng là ngu ngơ.
Hãy thực tế về nó. Quý vị có câu hỏi gì?
22 – PHÁ THAI BẤT HỢP PHÁP
HỎI: Ở đây, Mễ Tây Cơ, phá thai bị luật pháp cấm. Tuy thế,
hàng nghìn và hàng nghìn những vụ phá thai đang thực hiện mỗi ngày, và hàng
chục nghìn phụ nữ chết mỗi năm vì sơ suất trong thời gian phá thai. Thế
nên, ở đây, phá thai không chỉ là một vấn đề đạo đức, nó cũng là một vấn đề hợp
pháp. Làm thế nào chúng ta đối phó với điều ấy?
ĐÁP: Như chúng tôi đã cố gắng giải thích, từ quan điểm của
Đạo Phật, nếu ai đấy quyết định một vụ phá thai, vì bất cứ lý do nào, điều
chính yếu là cố gắng để làm là giảm thiểu tối đa cấp độ tàn phá của hành động
như một tổng thể, bằng vi thể hiện trên động cơ. Thí dụ, hãy cố gắng để
chắc chắn rằng động cơ hiện tiền tại thời điểm phá thai là không thù địch đối
với bào thai, và sau đấy, đặt cho nó một cái tên và có một lễ tang thích đáng.
Điều này sẽ giúp để giảm thiểu tối đa lượng khổ đau do bởi việc lấy đi mạng
sống này.
Nguyên tắc giống như thế là sự quan tâm thật sự về việc chúng ta
có một vụ phá thai như thế nào, nếu chúng ta quyết định một việc như thế.
Rõ ràng, chúng ta cần cố gắng đề có việc như thế trong một cách mà sẽ giảm
thiểu tối đa sự nguy hiểm cho sản phụ, cả y tế lẫn pháp lý. Chúng ta cần
điều nghiên vô cùng kỷ lưỡng phương pháp y tế an toàn nhất để có vụ phá thai là
gì, trong khi nó phải phù hợp với khả năng tài chính của chúng ta. Dĩ
nhiên, trong trường hợp quá nghèo, những phương pháp vệ sinh khoa học có thể
không thuận tiện, nhưng chắc chắn có một số phương pháp nào đấy an toàn hơn
những thứ khác.
Hợp pháp là một vấn đề quan trọng khác nữa, và vô cùng phức
tạp. Chúng ta cẩn phân biệt giữa sự tàn phá của chính hành động phá thai
với sự tàn phá của việc vi phạm luật pháp một quốc gia. Có hai trường hợp
để quan tâm ở đây: khi hành động bất hợp pháp là tàn phá theo quan điểm Phật giáo,
và điều nữa là khi hành động bất hợp pháp là tàn phá hay chẳng phải phi đạo
đức. Phá thai là cả bất hợp pháp lẫn tàn phá đạo đức, trong khi giảng dạy
Phật giáo trong một chế độ độc tài hay cộng sản hoặc đậu xe không đúng chỗ có
thể là bất hợp pháp, nhưng chúng không phải là những hành vi tàn phá đạo
đức. Trong cả hai trường hợp, câu hỏi là, do bởi vi phạm luật lệ dân sự,
chúng ta có bồi đắp những khuynh hướng và thói quen của nghiệp lực trong sự
liên tục tâm thức mà chúng sẽ chín muồi thành khổ não trong những đời sống
tương lai hay không?
Vi phạm luật lệ dân sự có thể đem đến sự khổ sở trong kiếp sống
này, nếu chúng ta bị phát hiện, bị bắt giữ, và bị trừng phạt. Điều này
gọi là “kết quả do con người làm nên.” Nhưng, chúng ta có thể không bị
bắt và vì thế không chắc chắn rằng chúng ta sẽ bị trãi qua bất cứ những rắc rối
và hình phạt nào. Cũng thế, giống như bất cứ hành động nào, nó có thể bồi
đắp một thói quen mà nó sẽ làm nguyên nhân cho chúng ta lập lại sự vi phạm một
luật lệ nào đấy, mặc dù không có sự chắc chắn về điều ấy. Chúng ta chỉ vi
phạm luật lệ nào đấy một lần. Tuy nhiên, vi phạm một luật lệ dân sự không
bồi đắp loại khuynh hướng hay thói quen nghiệp báo mà nó sẽ chín muồi trong
những kiếp sống tương lai thành những kinh nghiệm khổ não.
Trong trường hợp của một hành vi bất hợp pháp mà nó là tàn phá đạo
đức, thì không quá khó khăn để chọn lựa giữa những sự trừng phạt có thể có
trong kiếp sống này và những kinh nghiệm hạnh phúc trong những kiếp sống tương
lai. Trong trường hợp của những hành vi trung tính về đạo đức, chúng ta
có thể suy nghĩ về thệ nguyện phụ của Bồ tát (khinh giới) để tránh theo đuôi
những điều được người khác ưa thích hơn, (vì sự lựa chọn của họ là không tàn
phá). Nếu một xã hội làm những việc trong một cung cách nào đấy, thì
không cần thiết làm gián đoạn bằng việc cứ khăng khăng hành động theo cách
riêng của chúng ta, đặc biệt nếu cách của chính chúng ta bị thúc đẩy bởi sự tự
thích thú và thiếu sự quan tâm đến người khác.
Bây giờ trong trường hợp của một vụ phá thai, điều này không chỉ
là một hành động tàn phá cướp đi một mạng sống,mà cũng là bất hợp pháp ở xứ sở
này, một lần nữa chúng tôi nghĩ sự hướng dẫn cần thiết là, trước hết, để
tránh sự khờ dại và sau đó cố gắng để giảm thiểu tối đa những hậu quả khổ đau.
Sự lựa chọn phá thai hay không một cách căn bản là ý muốn của sản phụ, mặc dù
cha của bào thai và gia đình có thể đóng một vai trò trong sự làm nên quyết
định ấy. Nếu sự quyết định là phá thai, thế thì, không ngu ngơ về những
hậu quả luật pháp khả dĩ, hãy cố gắng để làm việc ấy trong một cách mà những
hiểm họa về bất hạnh và khổ đau được giảm thiểu tối đa trong mọi lĩnh vực – y
tế, hợp pháp, và đạo đức.
Dĩ nhiên, sau đó nếu chúng t among ước, chúng ta có thể hành động
để thay đổi luật pháp nếu chúng dường như vô lý. Tuy nhiên, khi luật pháp
căn cứ trên sự ảnh hưởng của những hệ thống tôn giáo khác, thế thì điều ấy thật
là khó xử.
23 – ĐẠO ĐỨC TÌNH DỤC TRONG SẠCH
HỎI: Ý kiến cá nhân của giáo sư về những thệ nguyện đạo đức
tình dục trong sạch của tu sĩ là thế nào? Giữ gìn đạo đức tình dục trong
sạch không phản lại với tự nhiên chứ? Chúng ta, như một xã hội, thích hợp
với điều ấy bây giờ không?
BERZIN: Giữ gìn đạo đức tình dục trong sạch là đang đi ngược
lại sinh tử luân hồi, một cách chắc chắn. Nhưng, như vì nó đi ngược lại
với tự nhiên, nên chúng ta cần có một cái nhìn gần hơn vào quan điểm của Phật
giáo đối với điều gì là “tự nhiên”. Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là
một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật
giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử. Nếu chúng ta muốn
hành động trong Phật giáo là để chiến thắng sự hiện hữu dưới sự khống chế của
những sự lèo lái bản năng này, mà chính nó làm cho khổ đau và những vấn nạn của
sinh tử luân hồi lập lại bất tận một cách không thể kiểm soát. Cùng với
phương sách để đạt đến sự giải thoát khỏi những sự lèo lái bản năng này, chúng
ta muốn trở nên ngày càng ít lệ thuộc với chúng và không bị chúng thống
trị. Bất chấp những sự lèo lái của sinh lý, chúng ta vẫn có thể giúp đở
những người khác, nếu chúng ta không bị chúng thống trị.
Nhiều người ở phương Tây không tin rằng Thượng đế là thiêng liêng,
nhưng thay vì thế, họ xem Tự Nhiên là thiêng liêng. Điều này có nghĩa là
xem sinh lý học như thiêng liêng. Họ nghĩ rằng bất cứ điều gì là tự nhiên
thì nó tự động là tốt. Trái lại, Phật giáo hay ngờ vực những điều gì đến
một cách tự nhiên, vì nhiều cảm xúc và thái độ phiền não sinh khởi một cách tự
động, như chúng thật sự thúc đẩy để hành động một cách tàn phá. Chúng ta
cần phải phân biệt một cách cẩn thận.
Thông thường những ai trở thành sư cô hay sư thầy hoặc là với xu
thế tình dục rất thấp, vì thế tình trạng độc thân không là một vấn đề lớn đối
với họ, hoặc là những ai bị ám ảnh với tình dục và những ai muốn chiến thắng
khổ đau mà sự ám ảnh của họ đã là nguyên nhân cho sự đau khổ. Nhưng thậm
chí trong trường hợp sau, người ta không muốn chỉ đơn thuần kềm chế xu hướng
sinh lý chẳng hạn như tình dục. Trong sự cố gắng để làm như thế, sự nguy
hiểm tồn tại rằng lại một điểm nào đấy người ta sẽ bùng nổ và hành động một
cách cuồng loạn. Những tu sĩ như thế hoạt động trên sự thèm khát
mong ước và vướng mắc mà chúng làm cho xu hướng tình dục của họ bị ép buộc và
ám ảnh (kích thích). Cũng thế, với những phương pháp mật tông tantra về chuyển
hóa những năng lượng vi tế, người ta có thể chuyển hóa năng lượng tình dục ấy
và hướng nó đến với một sự sử dụng tích cực hơn để tiến xa hơn trên con đường
tâm linh. Tuy nhiên, điều ấy không quá đơn giản để thực hiện.
Cũng thế, chúng tôi nghĩ rầng chúng ta cần giữ trong tâm tư rằng
thí dụ, những người Tây Tạng và Ấn Độbiểu lộ tác động vật lý đến những người
cùng giới tính, mà không có bất cứ một ý nghĩa nào của tình dục. Bởi vì
những sư cô và sư thầy thường thường choàng vai nhau và cầm tay nhau khi đi bộ,
những loại tiếp xúc thân thể này giúp cho họ đáp ứng cho yêu cầu về sự tiếp
xúc, ảnh hưởng và tình cảm vật lý. Hoàn toàn độc thân không bao hàm
việc kiềm chế bất cứ một sự tiếp xúc vật lý với những người khác hay với sự
biểu lộ tình cảm.
HỎI: Khi chúng ta quyết định có sự tiếp xúc tình dục với ai
đấy, chính hành động ấy phát sinh nghiệp quả. Thế thì, theo quan niệm của
Phật giáo, những hậu quả nào sẽ có trong dây chuyền những sự kiện nghiệp báo
sau khi làm nên quyết định ấy? Những thuận lợi của việc độc thân là gì?
BERZIN: Nếu chúng ta quyết định có hành vi tình dục với ai
đấy và sau đó thật sự thực hiện điều ấy với nhau, chúng ta chắc chắn sẽ thiết
lập một sự liên kết mạnh mẽ với người ấy mà nó sẽ tiếp tục trong những kiếp
sống kế tiếp. Nhưng loại liên kết và quan hệ đi theo lại tùy thuộc trên
loại quan hệ tình dục mà chúng ta có với người ấy, trên chính động cơ và thái
độ của chúng ta, trên động cơ và thái độ của những đối tác phối hiệp của chúng
ta, và v.v… Nhiều nhân tố sẽ tác động nó.
Và bởi vì một người độc thân không có nghĩa là người ấy tránh tất
cả những loại hậu quả nghiệp báo đối với vấn đề tình dục. Một số người
độc thân có thể dành vô số thời gian và năng lượng để tơ tưởng về tình dục với
một sự tràn ngập về thèm khát và vướng mắc. Những người tu sĩ như thế có
thể nghĩ về tình dục với ai đấy, nhưng không đi đến hành động. Điều này
không bồi đắp những hậu quả nghiệp báo về hành động vật lý, nhưng nó vẫn tô bồi
những hậu quả nghiệp báo về hành vi tinh thần. Mỗi thứ tùy thuộc thật sự
trên tình trạng của tâm thức – trên cấp độ của những cảm xúc và thái độ phiền
não mà chúng ta có hay trên mức độ tự tại mà chúng ta có đối với chúng.
24 – HỒI HƯỚNG
Hãy kết thúc với một sự hồi hướng. Chúng tôi nghĩ rằng bất
cứ sự hiểu biết hay tuệ giác nội quán nào mà chúng ta có thể thu được, và
bất cứ năng lực tích cực nào kết quả từ sự lắng nghe bài thuyết giảng này và
suy tư về nó – nguyện cho chúng sinh trưởng ngày càng lớn mạnh vì thế chúng tôi
có thể chiến thắng những sự mê mờ của chúng ta về tình dục. Nguyện cho
chúng tôi có thể sử dụng bất cứ trình độ hay thể loại tình dục nào mà chúng tôi
sẽ được đưa tới trong một cung cách lành mạnh. Nguyện cho chúng tôi làm
điều này không làm cho tình dục trở thành vấn đề quan trọng nhất trong đời
sống, nhưng chỉ là một phần khác trong cuộc sống. Nguyện cho chúng tôi
chiến thắng bất cứ sự ám ảnh nào mà chúng tôi có thể có với tình dục, vì thể
chúng tôi có thể sử dụng những năng lực và sự thông tuệ của chúng tôi một cách
hoàn hảo hơn, và tránh những rắc rối không cần thiết, do vậy chúng tôi có thể
là sự giúp đở hổ trợ tuyệt hảo nhất đến chính chúng tôi và đến những người
khác. Chân thành cám ơn.
--
Giáo sư Berzin đeo kính đứng giữa cùng một số
thành viên Tây Ban Nha gặp gở ởMorelia, Mễ Tây Cơ, tháng Mười năm 2008
Phụ giải:
[1] Confusion: rối rắm, mơ hồ, mê mờ, bất giác, si mê
[2] Nonconceptual cognition: nhận thức vô thức, nhận thức
không vướng mắc – nhận thức về một đối tượng, mà nhận thức ấy không qua trung
gian của một vũ trụ, một phạm trù, hay một danh xưng.
[3] A solid ‘me’: một cái ‘tôi’ hiện hữu như một thực thể
tồn tại biệt lập vững chắc, giống như nó có một giới hạn chung quanh nó hay nó
được bao bọc trong nhựa. Một thuật ngữ phổ thông không kỷ thuật để chỉ cái
‘tôi’sai lầm (cái ‘tôi’ bị bác bẻ), là hoàn toàn chẳng bao giờ tồn tại.
[4] Karmic tendency: khuynh hướng nghiệp, chủng tử nghiệp.
[5] Behavioral cause and effect: nhân quả hành vi – nguyên
tắc của nghiệp báo, bởi đó những hành vi nào đấy sản sinh một hậu quả nào
đấy. Nguyên nhân là thái độ của một người – người ấy hành động, nói năng
và suy nghĩ thế nào – và hậu quả là những gì người ấy trãi qua. Nhân quả
hành vi là nói về sự liên kết giữa thái độ và những kết quả người ấy trãi qua.
[6] dhal
[7] Individual: thành viên của một nhóm hay đặc trưng của một hiện
tượng.
[8] sado-masochistic: tình dục bạo hành, tình dục hành
hạ, bạo dâm, khổ dâm
[9] Bardo: một tình trạng hiện hữu từ thời khắc ngay sau khi
chết cho đến thời khắc ngay trước khi thụ thai. “Tình trạng trung gian,
hay thân trung ấm.”
[10] Conception: thụ thai, thời khắc khi tâm thức của một trung ấm
thân đi vào sự tái sinh kế tiếp của nó. Trong trường hợp tái sinh như con
người hay con thú, thời khắc trong ấy nó đi vào tinh trùng và trứng của cha mẹ
kế tiếp của nó.
--
Tuệ Uyển chuyển ngữ
No comments:
Post a Comment