BƯỚC NGOẶT CỦA KHOA HỌC His Holiness the Dalai Lama Tuệ Uyển chuyển ngữ |
|
Nhữngthập niên cuối cùng vừa qua đã chứng kiến những tiến bộ vượt bậc của khoa học về toàn bộ cơ thể và bộ não con người. Xa hơn nữa, với sự phát triển những kiến thức mới về di truyền học, thần kinh học của những hoạt động của những cơ cấu của vi sinh vật bây giờ đang đến trình độ vững vàng ổn định nhất của những tế bào cá nhân. Điều này đưa đến nhữngkỷ thuật với khả năng bất ngờ trong sự vận động đúng đắn của chính nguyên tắc cuộc sống, theo cách ấy cho phép tăng gia việc tạo nên thực tế hoàn toàn mới của loài người như một tổng thể. Ngày nay vấn đề nhữngcái chung nhất của khoa học với loài người trong phạm vi rộng lớn hơn không còn là một sự kiện hứng thú lý thuyết đơn thuần; vấn đề này phải đảm trách một ý nghĩa cấp bách cho tất cả những ai quan tâm đến số phận tồn tại của con người. Vì thế chúng tôi cảm thấy rằng một sự đối thoại giữa thần kinh học và xã hội có thể có những lợi ích thâm sâu trong ấy, rằng nó có thể giúp đào sâu thêm sự hiểu biết căn bản của điều muốn nói là, loài người và trách nhiệm của chúng ta đối với thế giới tự nhiên mà chúng ta chia sẻ với những chủng loại chúng sinh khác. Chúng tôi vui mừng để lưu ý rằng như phần chung nhất rộng lớn hơn này, có một sự quan tâm lớn mạnh của những nhà thần kinh học trong những đối thoại sâu hơn với những sự tu tập thiền định của đạo Phật.
Mặcdù sự quan tâm của chính chúng tôi đối với khoa học
đã bắt đầu như sự tò mò của một người trai trẻ hiếu động lớn lên ở Tây Tạng, dần
dần sự quan trọng to lớn của khoa học và kỷ thuật vì sự hiểu biết thế giới hiệnđại
trở nên rõ ràng trong trí óc chúng tôi. Chúng tôi không chỉ tìm tòi để hiểu thấu
những ý tưởng khoa học đặc thù, nhưng cũng cố gắng khámphá những quan hệ mật
thiết rộng lớn hơn của những tiến bộ mới trong kiến thức nhân loại và năng lực
kỷ thuật đem đến qua khoa học. Những phạm vi đặc thù của khoa học mà chúng tôi
đã tìm hiểu nhiều năm qua hầu hết là vật lý hạ nguyên tử, vũ trụ học, sinh vật
học, và tâm lý học. Vìsự hiểu biết giới hạn của mình trong những phạm vi này
chúng tôi tri ânđến những giờ khắc của những thời gian cởi mở bộc trực chia xẻ
với chúng tôi bởi giáo sư Carl von Weizsacker và cố giáo sư David Bohm
DAVIDBOHM:
University of London frofessor of Theoretical Physics theories that demonstrate
an amazing similarity to the great mystìcal traditions of East and West. (David
Pratt / Theosophical University Press)
nhữngngười mà chúng tôi xem như những vị thầy của mình về cơ học lượng tử, và trong lĩnh vực sinh vật học, đặc biệt thần kinh học, bởi cố giáo sư Robert Livingstone và Francisco Varela. Chúng tôi cũng biết ơn nhiều nhà khoa học nổi tiếng với họ chúng tôi đã có đặc ân tham gia những cuộcđối thoại qua sự bảo trợ của Viện Tâm Học và Đời Sống, đơn vị đã khởi xướng những Hội Nghị Tâm Thức và Cuộc Sống bắt đầu vào năm 1987 tại nơi cư trú của chúng tôi ở Dharamsala, Ấn Độ. Những cuộc đối thoại này đã tiếp tục trải qua hàng năm và trên thực tế cuộc đối thoại sau cùng về Tâm Thức và Cuộc Sống đã kết thúc tại đây, thủ đô Hoa Sinh Tân, Hoa kỳ, vào đúng tuần này.
nhữngngười mà chúng tôi xem như những vị thầy của mình về cơ học lượng tử, và trong lĩnh vực sinh vật học, đặc biệt thần kinh học, bởi cố giáo sư Robert Livingstone và Francisco Varela. Chúng tôi cũng biết ơn nhiều nhà khoa học nổi tiếng với họ chúng tôi đã có đặc ân tham gia những cuộcđối thoại qua sự bảo trợ của Viện Tâm Học và Đời Sống, đơn vị đã khởi xướng những Hội Nghị Tâm Thức và Cuộc Sống bắt đầu vào năm 1987 tại nơi cư trú của chúng tôi ở Dharamsala, Ấn Độ. Những cuộc đối thoại này đã tiếp tục trải qua hàng năm và trên thực tế cuộc đối thoại sau cùng về Tâm Thức và Cuộc Sống đã kết thúc tại đây, thủ đô Hoa Sinh Tân, Hoa kỳ, vào đúng tuần này.
Aiđấy có thể tự hỏi rằng “Một tu sĩ Phật giáo làm gì
mà hứng thú sâu xa trong khoa học như thế? Có sự liên hệ nào ở đấy giữa Phật
giáo, một truyền thống triết học và tâm linh của Ấn Độ và khoa học hiện đại? Lợi
ích nào có thể có đối với một môn khoa học kỷ cương như thần kinh học hấp dẫn
trong sự đối thoại với truyền thống thiền định hay tĩnh lự của Phật giáo?”
Mặcdù truyền thống thiền định Phật giáo và khoa học
hiện đại tiến triển từ những gốc rể lịch sử, tri thức và văn hóa khác nhau,
chúng tôi tin rằng từ tâm điểm chúng chia xẻ phần lớn những ý nghĩa quan trọng
đặc biệt trong căn bản quan điểm triết lý và phương pháp học. Ở trình độ triết
lý, cả Phật học và khoa học hiện đại cùng chia xẻ một sự hoài nghisâu xa về bất
cứ những khái niệm tuyệt đối nào, cho dù khái niệm như một sự hiện hữu siêu việt,
như một nguyên lý hay nguyên tố vĩnh cữu, không thay đổi như tâm linh, hay như
một hạ tầng cơ sở căn bản của thực tại. Cả Phật học và khoa học cùng liên hệ để
giải thích cho sự hiện diện và sự tiến triển của vũ trụ và đời sống trong những
quan hệ hổ tương phức tạp của định luật tự nhiên về nguyên nhân và kết quả hay
luậtnhân quả. Từ viễn tượng phương pháp học cả hai truyền thống nhấn mạnh đến
vai trò kinh nghiệm của những phương pháp thực hành. Thí dụ, trong truyền thống
khảo sát của Phật học giữa ba nhân tố xác chứng tri thức: –kinh nghiệm, lý trí
và thực chứng - nó là chứng cớ của kinh nghiệm diễnra trước, với lý trí đến thứ
hai và cuối cùng là thực chứng. Điều này có nghĩa rằng, trong Phật học khảo sát
thực tại, tối thiểu trong căn bản, thực chứng kinh nghiệm nên vượt lên trên uy
quyền của lý thuyết kinh luận chẳng kể là một kinh điển có thể được tôn kính
sâu xa như thế nào. Ngay cả trong trường hợp tri thức được tìm thấy ra qua lý
trí hay suy luận, giá trị của nó phải bắt nguồn một cách căn bản từ một số quán
sát những sự kiện của kinh nghiệm. Do bởi lập trường cùng quan điểm này, chúng
tôi thường khuyến cáo đến những những đồng sự Phật giáo của chúng tôi rằng những
sự hiểu biết sâu sắc thẩm tra kinh nghiệm của vũ trụ học và thiên văn học hiện
đại phải thúc đẩy chúng ta sửa đổi bây giờ, hay trong một số trường hợp bác bỏ
nhiều khía cạnh của truyền thống vũ trụ học như đã được tìm thấy trong những
kinh luận cổ xưa.
Vìcăn bản vận động chính, sự khảo sát của Phật giáo
về thực tại, là yêu cầu thiết yếu để vượt thắng khổ đau và làm hoàn hảo những
tình trạng củacon người, định hướng chính yếu của truyền thống khảo sát Phật
giáo đã từng nhằm thông hiểu tâm thức con người và nhiều chức năng khác nhau của
nó. Trách nhiệm ở đây là bằng vào việc đạt đến sự thông suốt sâu xahơn tâm linh
con người, chúng ta có thể tìm ra những phương pháp để chuyển hóa tư tưởng của
chúng ta, những cảm xúc, những xu hướng cơ bản của chúng và vì thế một phương
pháp lành mạng, tráng kiện và toàn diện đáp ứng cho con người có thể được tìm
ra. Điều thể hiện trong luận văn này là truyền thống Phật giáo đã sáng tạo ra một
sự phân loại những trạng thái tinh thần, cũng như những kỷ năng thiền định tư
duy để tinh luyện những phẩm chất tinh thần đặc thù. Vì thế một sự trao đổi
chân thành xác thực giữa tri thức và kinh nghiệm tích tập của Phật học và khoa
học hiện đại trên một phạm vi rộng rải là lợi ích có liên quan đến tâm thức con
người, từ nhận thức và cảm xúc để thấu hiểu khả năng về sự chuyển hóa vốn có
trong não bộ con người có thể được quan tâm một cách sâu xa và cũng như lợi ích
tiềm tàng của nó. Trong kinh nghiệm của chính mình, chúng tôi cảm thấy được bồi
bổ sâu sắc do những buổi tham dựđối thoại với những nhà thần kinh học và tâm lý
học trên những câu hỏi về tự nhiên và vai trò của những xúc tình tích cực và
tiêu cực, chú ý, tưởng tượng, cũng như tính tạo hình của não bộ. Bằng chứng
thuyết phục từ thần kinh học và y học về vai trò cốt yếu của sự tiếp xúc vật lý
đơn giản cho ngay cả sự khuyếch trương của một bộ não nhi đồng trong những tuần
lễ đầu tiên mang đến một cách mạnh mẻ sự liên hệ bản chất giữa từ bi yêu thương
và hạnh phúc con người.
Phậtgiáo từ lâu đã tranh luận về khả năng đặc biệt rộng
lớn về sự chuyển hóa tồn tại một cách tự nhiên trong bộ não con người. Cuối
cùng, truyềnthống đã phát triển một hệ thống rộng lớn những kỷ năng tư duy tĩnh
lự,hay những phương pháp thiền định, hướng đặc trưng đến hai mục tiêu chính:
1- Tăng trưởng một tâm yêu thương, và
2- Phát triển sự hiểu biết sâu sắc vào trong tự
nhiên của thực tại, điều ám chỉ như sự liên hiệp thống nhất của từ bi và tuệ
trí.
Từ tâm điểm của những phương pháp thiền định này dựa
trên hai kỷ năng căn bản,
1- Sự rèn luyện tinh tế chú tâm hay định lực và sự
áp dụng vững vàng kiên định trên một khía cạnh, và khía cạnh kia là
2- Điều chỉnh và chuyển hóa những cảm xúc.
Trongcả hai trường hợp này, chúng tôi cảm thấy, có
thể có khả năng to lớn rộng rải cho sự cộng tác nghiên cứu giữa truyền thống
thiền định tư duy của đạo Phật và thần kinh học. Thí dụ, thần kinh học hiện đại
đã phát triển một sự hiểu biết phong phú về cơ chế của bộ não liên kết với cả
chú ý và cảm xúc. Truyền thống thiền định tư duy của đạo Phật, một mặt cống hiến
một lịch sử lâu đời của nó về sự quan tâm trong sự thực tập rèn luyện tinh thần,
cống hiến về mặt khác là những kỷ năng thực hành thực dụng cho một định lực
tinh tế, cùng sự điều chỉnh và chuyển hóa cảmxúc. Sự gặp gở của thần kinh học
hiện đại và kỷ năng thiền định tư duycủa Phật học, vì thế, có thể đưa đến khả
năng của sự học hỏi về tác động hành hoạt có chủ tâm của tinh thần trên hệ thống
thần kinh của não bộ được nhận diện như thiết yếu cho những tiến trình tinh thần
đặc thù. Tối thiểu trong sự gặp gở của nhiều ngành học thuật có thể hổ trợ để đặt
lên những câu hỏi quan trọng trong nhiều lãnh vực thiết yếu. Thí dụ, có phải những
cá nhân có một khả năng thích ứng để điều chỉnh những cảm xúc và sự chú tâm của
họ hay, như truyền thống Phật học luận bàn, khả năng của họ để điều chỉnh những
tiến trình này chịu trách nhiệm lớn lao để thay đổi những ý kiến nảy sinh ở cấp
độ tương tự của thái độ tuânthủ và hệ thống của bộ não liên hệ với những chức
năng này hay không? Trên một lãnh vực mà truyền thống thiền định tư duy của đạo
Phật có thể có một sự cống hiến quan trọng để làm là những kỷ năng thiết thực
nó phát triển cho việc rèn luyện trong từ bi yêu thương. Với sự quan tâm đến sự
rèn luyện tinh thần cả trong chú tâm và điều phục cảm xúc nó cũng trở nên quan
trọng để đặt những câu hỏi hoặc là có bất cứ kỷ năng đặc thù nào có thời gian cảm
ứng trong định hạn có hiệu lực của chúng, vì thế những phương pháp mới có thể
được thiết lập để thích ứng những yêu cầu về tuổi tác, sức khỏe, và những nhân
tố biến thiên khác.
Tuyvậy, một điểm cần thận trọng được kêu gọi quan
tâm. Chắc chắn không thể tránh được khi hai truyền thống khảo sát hoàn toàn
khác nhau như Phật học và thần kinh học được gặp gở với nhau trong một cuộc đối
thoại đa diện, điều này sẽ liên hệ đến những vấn đề mà thông thường đi kèm theo
để trao đổi xuyên qua ranh giới của văn hóa và thể nghiệm. Thí dụ, khi chúng ta
nói về “khoa học thiền định”, chúng ta cần một cảm giácbén nhạy chính xác ý
nghĩa nào đấy trong lời tuyên bố như thế. Trên lãnh vực của những nhà khoa học,
chúng tôi cảm thấy, thật quan trọng để cảm giác bén nhạy đến những ý nghĩa khác
nhau của một thuật ngữ quan trọng như thiền định trong phạm vi truyền thống.
Thí dụ, trong phạm vi truyền thống thuật ngữ cho thiền định là “bhavana” trong
Sanskrit hay Tạng ngữ là “gom”. Thuật ngữ Sanskrit “bhavana” nghĩa là khái niệm
tu tập, như là tu tập rèn luyện một thói quen đặc thù hay một phương pháp sống,
trong khi Tạng ngữ “gom” có nghĩa là thói quen tu tập. Vì thế, phát biểu một
cách ngắn gọn là, thiền định trong phạm vi truyền thống Phật học đề cập đến một
sự hoạt động tinh thần có suy nghĩ thận trọng liên hệ sự tu dưỡng quen thuộc và
thông hiểu, với nó là một đối tượng được lựa chọn, một sự kiện, một chủ đề, một
thói quen, một quan điểm, hay một phương thức sống. Nói một cách rộng rải hơn,
có hai chủ đề của thực tập thiền định:
1- Tập trung trên sự tĩnh lặng của tâm.
2- Tập trung trên những tiến trình nhận thức của hiểu biết.
2- Tập trung trên những tiến trình nhận thức của hiểu biết.
Cảhai được đề cập đến như: a- Thiền tập định tâm và
b- Thiền tập biện giải hay phân tích. Trong cả hai trường hợp, thiền tập có thể
mang nhiều hình thức khác nhau. Thí dụ, nó có thể mang hình thức như lấy mộtthứ
gì đấy làm đối tượng nhận thức của một người, như thiền định trên sự vô thường,
tạm bợ, hay nhất thời của một đời người. Hay nó có thể mang hình thức của việc
trau dồi một trạng thái tinh thần đặc thù, chẳnghạn như từ bi yêu thương bằng sự
phát triển một sự thành tâm, vị tha, thương cảm để làm nhẹ bớt khổ đau của những
người khác. Hay, nó có thể mang hình thức của quán tưởng, khám phá khả năng của
con người để phát sinh tâm thức quán chiếu, điều này có thể được sử dụng trong
nhiều phương pháp khác nhau để trau dồi sự cát tường của tâm thức. Vì thế thật
thiết yếu để nhận thấy hình thức nào của thiền tập mà một người có thể khảo sát
khi liên hệ trong sự cộng tác nghiên cứu và do vậy sự phức tạp của những sự thực
hành thiền tập được học hỏi là phù hợp với sự thích thú phức tạp tế nhị của
nghiên cứu khoa học.
Mộtlĩnh vực khác nơi mà một viễn cảnh quan yếu được
đòi hỏi trong phần củanhững khoa học gia là khả năng phân biệt giữa những khía
cạnh KINH NGHIỆM của tư tưởng Phật học và quán chiếu tư duy trên một phương diện,
và phương diện kia là TRIẾT LÝ và tính chất siêu hình liên hệ với những phương
pháp thực tập thiền định. Nói cách khác, đúng như chúng ta phải phân biệt trong
sự tiếp cận của khoa học giữa giả thuyết, những kinh nghiệm quán sát dựa trên
những thử nghiệm, và sự giải thích kết quả trong cùng một cách nó thật thiết yếu
để phân biệt giả thuyết, những điểm đặc trưng có thể thẩm tra lại dựa theo kinh
nghiệm của những trạng thái tinh thần, và những diễn giải triết lý kết quả
trong Phật học. Cách này cả hai phía trong cuộc đối thoại có thể tìm ra một cơ
sở phổ biến của những thực tế có thể quán sát theo kinh nghiệm về tâm thức con
người, trong khi không rơi vào sự chủ quan làm giảm bớt cơ cấu giá trị nghiên cứu,
tập luyện hay tu dưỡng của phía kia. Mặc dù những tiền giảthuyết triết lý và những
diễn giải nhận thức kết quả có thể khác nhau giữa hai truyền thống khảo nghiệm
này, bao lâu khi những kinh nghiệm thực tế được quan tâm, những thực tế phải được
duy trì như những thực tế, không kể là chúng ta chọn cách nào để diễn tả chúng.
Bất cứ những sự thật nào về tự nhiên chung cuộc của nhận thức – cho dù cuối
cùng nó có thể giảm bớt hay không giảm bớt những tiến trình vật lý – chúng tôi
tin tưởng ở đấy chúng ta có thể chia xẻ được những kinh nghiệm hiểu biếtthực tế
về nhiều khía cạnh khác nhau của những nhận thức, tư tưởng và cảm xúc của chúng
ta.
Vớinhững sự quan tâm thận trọng này, chúng tôi tin
tưởng, một sự cộng tác gần gũi giữa hai truyền thống khảo nghiệm này có thể cống
hiến thật sự đến việc mở rộng sự hiểu biết của con người về thế giới phức tạp của
kinh nghiệm chủ quan nội tại mà chúng ta gọi là tâm. Lợi ích của những sự cộng
tác đang bắt đầu được chứng minh, giải thích và làm thấy rỏ. Theo những báo cáo
sơ bộ, những tác động ảnh hưởng của tập luyện tinh thần, như thực hành tỉnh thức
đơn giản trên một căn bản thông thường haytrau dồi tâm nguyện từ bi yêu thương
như được thuyết minh trong Phật học, đem đến sự thay đổi đáng kể trong não bộ
con người có tương quan đến những trạng thái tinh thần tích cực có thể được đo
lường. Những khám phá gần đây trong thần kinh học đã chứng minh sự tạo hình bẩm
sinh của não bộ, cả hai hình thức về những mối quan hệ của việc phân chia tế
bào thần kinh và sản sinh tế bào thần kinh, như một kết quả của sự hướngđến những
kích thích ngoại tại, như sự luyện tập vật lý tự giác và sự làm phong phú thêm
cho môi trường. Truyền thống thiền định tư duy Phật học có thể giúp để mở rộng
lãnh vực thẩm tra này của khoa học bằng việc đề xuất những phương pháp luyện tập
tinh thần mà nó cũng liên quan thíchhợp đến việc tạo hình của não bộ. Nếu nó
hóa ra, như truyền thống Phậthọc hàm ý, sự thực tập tinh thần có thể ảnh hưởng
đáng kể trong việc phân chia tế bào thần kinh và những thay đổi thần kinh trong
bộ não, điều này có thể có sự quan hệ mật thiết sâu xa. Âm vang của những
nghiên cứu như thế không đơn giản chỉ để mở rộng kiến thức chúng ta về tâm thức
con người; nhưng, có thể một cách quan trọng hơn, chúng có thể có tầm quan trọng
to lớn hơn cho sự hiểu biết của chúng ta về giáo dục và sức khỏe tinh thần.
Tương tự thế, bất kỳ lúc nào, như những xác nhậncủa truyền thống Phật học, sự tự
nguyện tu dưỡng trau dồi từ bi yêu thương có thể dẫn đến sự thay đổi căn bản
trên quan điểm của cá nhân, hướng đến sự thấu cảm rộng lớn hơn đối với những
người khác, điều này cóthể có quan hệ mật thiết và ảnh hưởng sâu xa rộng rải
cho xã hội.
Cuốicùng, chúng tôi tin tưởng rằng sự cộng tác giữa
thần kinh học và truyềnthống thiền tập của Phật học có thể tỏa ra ánh sáng mới
mẻ trên vấn đề quan trọng sinh động cho bộ mặt chung của đạo đức học và thần
kinh học. Bất chấp nhận thức nào mà người ta có thể có về quan hệ giữa đạo đức
học và khoa học, trong thực hành thật sự, khoa học đã tiến triển chính yếu như
một sự khám phá, một sự tập luyện, một môn học của kinh nghiệm với một thái độ
trung lập về đạo đức và quý trọng tự do. Nó đã được nhận thức một cách thiết yếu
như một phương thức để thẩm tra mà trong ấycho chúng ta những kiến thức chi tiết
của thế giới kinh nghiệm và nhữngđịnh luật căn bản của tự nhiên. Chỉ từ quan điểm
khoa học, việc tạo nên vũ khí nguyên tử thật sự là một thành quả đáng kinh ngạc.
Tuy thế, vì sự sáng tạo này có khả năng bắt loài người phải chịu quá nhiều khổ
đau với những cái chết và sự tàn phá không thể tưởng tượng, chúng ta phải lưu ý
nó như tiêu cực, hay hủy diệt, hay không xây dựng. Sự đánh giá đạo đức điều đó
phải được quyết định trên những gì tiêu cực và nhữnggì tích cực. Cho đến gần
đây, điều tiếp cận này tách biệt đạo đức và khoa học, với sự thấu hiểu rằng khả
năng con người để suy nghĩ phù hợp đạo lý tiến triển song song cùng với kiến thức
con người, dường như đã thành công.
Hiệnnay, chúng tôi tin tưởng rằng loài người đang ở
một bước ngoặc quan trọng. Những tiến bộ cơ bản đã xảy ra trong thần kinh học
và đặc biệt trong di truyền học vào cuối thế kỷ hai mươi đã hướng chúng ta đến
một kỷ nguyên mới của lịch sử loài người. Kiến thức của chúng ta về não bộ và
thân thể con người ở cấp độ tế bào và di truyền học, với kết quả của những tiềm
năng quan trọng của kỷ thuật đã cống hiến cho di truyền học, đã tiến đến một
trình độ mà đạo đức thử thách với những tiến bộ khoa họcnày là rất lớn lao. Nó
cũng quá hiển nhiên rằng sự tư duy đạo đức đơn giản đã không thể bắt kịp nhịp
bước với tiến trình nhanh chóng như thế trong sự thu hoạch về kiến thức và năng
lực của chúng ta. Tuy thế, những ngành của những khám phá mới này và những áp dụng
của chúng đến nay đạt được chứng tỏ chúng liên hệ đến ngay chính nhận thức tự
nhiên của con người và sự bảo tồn duy trì loài người. Vì thế chúng ta không còn
phải chấp nhận quan điểm rằng trách nhiệm của chúng ta như một xã hội chỉ đơn
giản là những kiến thức khoa học và những năng lực nổi bật của kỷ thuật vượt trội
hơn nữa và rằng sự lựa chọn những gì để hành độngvới kiến thức và năng lực này
nên được giao phó trong những bàn tay củacá nhân.
Chúngta phải tìm ra phương thức có liên quan tới chiều
hướng của sự phát triển khoa học đặc biệt trong khoa học đời sống. Bằng sự viện
dẫn nhữngnguyên tắc đạo đức căn bản, chúng tôi không bênh vực một sự hiệp nhất
đạo đức tôn giáo và sự thẩm tra của khoa học. Tốt hơn, chúng tôi nói vềnhững gì
chúng tôi gọi là “đạo lý muôn thuở” nó bao trọn những nguyên tắc đạo đức chính
yếu, như là từ bi yêu thương, bao dung, một ý nghĩa âncần, quan tâm đến kẻ
khác, cùng trách nhiệm trong việc sử dụng kiến thức và năng lực – những nguyên
tắc vượt lên trên những ngăn cách giữa những người tín ngưỡng cùng những người
không tín ngưỡng, và những tín đồ của tôn giáo này với tôn giáo khác. Một cách
cá nhân chúng tôi muốn tưởng tượng những hành động của tất cả loài người, kể cả
khoa học, như những ngón tay trên một bàn tay. Vì thế cho đến khi nào một ngón
tay của những ngón tay vẫn được nối với bàn tay của sự thông cảm và vị tha căn
bản của con người, chúng sẽ tiếp tục phục vụ cho sự cát tường của loài người.
Chúng ta đang thực sự sống trên một thế giới. Kinh tế hiện đại, truyền thông điện
tử, du lịch quốc tế cũng như những vấn đề của môi trường, tất cả nhắc nhở chúng
ta căn bản hằng ngày sự liên đới thế giới ngày nay đã trở nên sâu xa như thế
nào. Những cộng đồng khoa học đóng một vai trò sinh động quan trọng đầy sức sống
trong thế giới liên đới tương thuộc này. Vì bất cứ lý do lịch sử nào, hiện nay
những khoa học gia thụ hưởng một sự tôn trọng và tín nhiệm lớn lao trong xã hội,
nhiều hơn hẳn những môn học tu luyện, kỷ luật, triết lý, và tôn giáo của chính
chúng tôi. Chúng tôi kêu gọi đến những khoa học gia là hãy mang vào trong việc
làm chuyên môn của họ tiếng gọi của những nguyêntắc đạo đức căn bản mà tất cả
chúng ta cùng chia sẻ như những con người.
Science at the Crossroads
By Tenzin Gyatso, the Dalai Lama
By Tenzin Gyatso, the Dalai Lama
Thisarticle is based on a talk given by
the Dalai Lama at the annual meeting of the Society for Neuroscience on
November 12, 2005 in Washington DC.
http://dalailama.com/page.163.htm
Tuệ Uyển chuyển ngữ
15-11-2008
Tuệ Uyển chuyển ngữ
15-11-2008
No comments:
Post a Comment