CỘNG ĐỒNG ĐỊA CẦU VÀ
SỰ CẦN THIẾT CHO TRÁCH NHIỆM TOÀN CẦU
Tenzin Gyatso, the Fourteenth Dalai Lama
Tuệ Uyển chuyển ngữ
Tuệ Uyển chuyển ngữ
CỘNG ĐỒNG ĐỊA CẦU
Khi
thế kỷ hai mươi kéo màn kết thúc, chúng ta thấy rằng thế giới trở nên nhỏ hơn
và loài người trên thế giới đã trở thành gần như một cộng đồng. Những
liên minh quân sự và chính trị đã được tạo thành những nhóm đa quốc gia rộng
lớn, công nghiệp kỷ nghệ và mậu dịch quốc tế đã sản xuất một nền kinh tế toàn
cầu, và sự đối thoại toàn thế giới đang xóa đi những hàng rào cũ kỷ của khoảng
cách, ngôn ngữ, và chủng tộc.
Chúng
ta cũng đang bị lôi cuốn với nhau bởi hàng khối vấn đề chúng ta đối diện; nạn
nhân mãn, tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn dần, và vấn nạn môi trường
đang đe dọa không khí, nước, và cây cối của chúng ta, cùng với số lượng lớn
những hình thức sinh sống xinh đẹp là nền tảng của sự tồn tại trên hành tinh
nhỏ bé mà chúng ta đang chia xẻ.
Chúng
tôi tin tưởng rằng để đối diện với thử thách của thời đại chúng ta, loài người
sẽ phải phát triển một nhận thức to lớn rộng rãi hơn về trách nhiệm toàn
cầu. Mỗi chúng ta phải học để hành động không chỉ cho chính lợi ích của
gia đình, xứ sở mỗi cá nhân, mà cho lợi ích của toàn thể loài người.
Trách nhiệm toàn cầu thật sự là chìa khóa cho sự tồn tại của nhân loại.
Nó là một nền tảng tuyệt hảo cho hòa bình thế giới, việc sử dụng công bằng vô
tư tài nguyên thiên nhiên, và qua việc quan tâm đến những thế hệ tương lai,
việc bảo hộ đúng đắn đến môi trường.
MỘT GIA
ĐÌNH LOÀI NGƯỜI
Cho dù
chúng ta thích nó hay không, tất cả chúng ta đều sinh ra trên trái đất này như
một phần của một gia đình nhân loại vĩ đại. Giàu hay nghèo, giáo dục hay
không giáo dục, thuộc quốc gia này hay quốc gia kia, theo tư tưởng này hay tư
tưởng nọ, căn bản của mỗi chúng ta chỉ là một con người như mọi người khác; tất
cả chúng ta đều khao khát hạnh phúc và không muốn khổ đau. Xa hơn nữa,
mỗi chúng ta có một quyền bình đẳng để đạt đến những mục tiêu này. Thế
giới ngày nay đòi hỏi chúng ta chấp nhận một gia đình nhân loại thống
nhất. Trong quá khứ, những cộng đồng cô lập có thể nghĩ lẫn nhau như tách
biệt một cách căn bản và ngay cả tồn tại hoàn toàn cô lập. Tuy nhiên ngày
nay, những sự kiện trong một bộ phận của thế giới cuối cùng có thể ảnh hưởng
đến toàn hành tinh. Vì vậy, chúng ta phải xử sự với mỗi một vấn đề của
hầu hết những sự kiện khu vực địa phương như một sự quan tâm toàn cầu từ thời
điểm nó bắt đầu. Chúng ta không thể vướng mắc bởi những rào cản của
quốc gia, chủng tộc, và tư tưởng đã tách biệt chúng ta ngoại trừ dư âm của phá
hoại, tiêu cực, và không xây dựng. Trong khung cảnh mới của sự lệ thuộc
liên đới giữa chúng ta, quan tâm đến những quyền lợi của kẻ khác rõ ràng là
hình thức tuyệt hảo cho quyền lợi của chính chúng ta.
Chúng
tôi nhận thấy sự kiện này là một nguồn gốc của sự hy vọng. Sự cần
thiết cho hợp tác chỉ có thể làm cho loài người mạnh hơn, bởi vì nó giúp chúng
ta nhận ra rằng căn bản bảo đảm nhất cho trật tự thế giới mới không chỉ đơn
giản là những sự liên minh rộng rãi hơn về chính trị và kinh tế, nhưng đúng hơn
là sự chân thành thực hành của mỗi cá nhân về yêu thương và từ bi. Cho
một tương lai tươi đẹp hơn, hạnh phúc hơn, vững vàng hơn, và văn minh hơn, mỗi
chúng ta phải phát triển một cảm xúc trung thực, một trái tim ấm tình anh chị
em.
LIỀU
THUỐC VỊ THA CHỦ NGHĨA
Ở Tây
Tạng chúng tôi nói rằng nhiều chứng bệnh có thể chửa bằng một vị thuốc của yêu
thương và từ bi. Những phẩm chất này là nguồn gốc căn bản của nhân loại
hạnh phúc, và sự cần thiết của chúng ta đối với chúng nằm sâu tận đáy lòng của
mỗi con người. Bất hạnh thay, lòng yêu thương và từ bi đã từng bị lãng
quên bởi quá nhiều tác động của môi trường xã hội từ lâu rồi. Thông
thường hạn chế trong gia đình và gia cư, sự thực hành của họ trong đời sống
công cộng bị xem là không thực tế, ngay cả là ngây thơ, khờ dại. Điều ấy
thật là một thảm kịch. Trong quan kiến của chúng tôi, sự thực hành từ bi
yêu thương thì không là một dấu hiệu của một ý tưởng không thực tế mà là phương
pháp tác động nhất để hướng đến quyền lợi của người khác cũng như của chính
mình.– Như một quốc gia, một nhóm hay như những cá nhân – càng tùy thuộc
liên đới đến những người khác, nó càng biểu hiện thuận lợi nhất cho chúng ta đến
bảo đảm sự tốt lành cho họ. Thực hành chủ nghĩa vị tha là cội nguồn thực
sự của thỏa hiệp và hợp tác; chỉ nhận biết sự cần thiết của hòa hiệp chưa
đủ. Một tâm hứa hẹn, cam kết, thệ nguyện với từ bi yêu thương giống như
một kho dự trữ đầy ấp – một cội nguồn kiên định chung thủy của năng lực, quyết
định và ân cần. Tâm niệm này giống như một chủng tử, một hạt giống; khi
phát triển, nó cho khởi lên nhiều phẩm chất tốt đẹp như, tha thứ, bao dung, nội
lực và sự quả quyết để vượt thắng sợ hãi và không an toàn. Tâm từ bi yêu thương
giống như một loại linh dược, có thể chuyển hóa những hoàn cảnh xấu, bất
lợi trở thành tốt và thuận lợi. Vì vậy chúng ta không nên hạn chế
sự biểu cảm yêu thương và từ bi đến gia đình và bè bạn chúng ta. Từ bi yêu
thương cũng không chỉ là đáp ứng của những tu sĩ, y sĩ và người làm công tác xã
hội, nó là nhiệm vụ cần thiết của mỗi bộ phận trong cộng đồng nhân loại.
Cho dù
một xung đột xảy ra trong phạm vi của chính trị, kinh tế hay tôn giáo, một sự
tiếp cận vị tha thường là những phương tiện giải quyết duy nhất. Thỉnh
thoảng những quan niệm chính xác-đúng đắn tự chính nó chúng ta dùng làm trung
gian để bàn cãi nguyên nhân của vấn đề. Tại những thời điểm như thế, khi
một giải pháp dường như bất khả thi, cả hai bên nên gợi nhớ đến bản chất tự
nhiên của con người điều đã liên kết họ lại. Điều này sẽ làm tan vở bế
tắc và , về lâu về dài, nó làm dễ dàng hơn cho mọi người để đạt đến mục
tiêu. Dù cho không bên nào hoàn toàn hài lòng, nếu cả hai bên cùng nhượng
bộ, tối thiểu, hiểm họa của xung đột xa hơn sẽ được ngăn chặn. Chúng ta
tất cả đều biết rằng phương thức này của sự thỏa hiệp là phương pháp tác động
hiệu quả nhất để giải quyết những vấn đề - rồi thì, tại sao, chúng ta không sử
dụng nó thường xuyên hơn?
Khi
chúng tôi lưu tâm đến sự thiếu vắng của hợp tác trong xã hội loài người, chúng
tôi chỉ có thể kết luận rằng nó phát xuất từ vô minh si mê ám tối thiếu sáng
suốt của sự lệ thuộc liên đới tự nhiên của chúng ta. Chúng tôi thường
dùng bằng thí dụ của những côn trùng nhỏ, như những con ong. Luật tự
nhiên ra lệnh rằng những con ong làm việc với nhau để tồn tại. Như một
kết quả, chúng có một nhận thức bản năng tự nhiên của trách nhiệm xã hội.
Chúng không có hiến pháp, luật lệ, cảnh sát, tôn giáo hay rèn luyện đạo đức,
nhưng do bởi tự nhiên tính của chúng, chúng lao động một cách trung thành với
nhau. Thảng hoặc chúng có thể chiến đấu, nhưng trong sự tồn tại chung của
cả tập đoàn trên căn bản của sự hợp tác. Con người chúng ta, trái lại, có hiến
pháp, những hệ thống hợp lệ rộng lớn và cảnh sát quân sự; chúng ta có tôn giáo,
sự thông minh tuyệt vời và một trái tim với môt khả năng vĩ đại để yêu thương.
Nhưng mặc dù với những phẩm chất tuyệt hảo của chúng ta, trong hành xử
thực tế chúng ta đã tụt hậu so với những côn trùng nhỏ bé; trong nhiều phương
diện, chúng tôi cảm thấy chúng ta nghèo hơn loài ong.
Thí dụ,
hàng triệu người sống trong những thành phố lớn trên khắp thế giới, nhưng bất
chấp sự gần gũi này, rất nhiều người cô độc. Một số không có ngay cả một
con người để chia xẻ những cảm xúc sâu thẩm nhất của họ, và sống trong một
trạng thái bực bội dao động mãn đời. Điều đó thật là buồn. Chúng ta
không phải là những loài vật cô đơn chỉ kết hợp để sống cùng với nhau.
Nếu chúng ta là như thế, tại sao chúng ta phải xây dựng những thành phố lớn hay
thị trấn? Nhưng ngay cả dù chúng ta là những loài vật xã hội bị thúc ép
sống với nhau, bất hạnh thay, chúng ta thiếu một nhận thức trách nhiệm đối với
những đồng loại con người của chúng ta. Có phải là thiếu sót ấy nằm
trong kiến trúc xã hội – những cấu trúc cơ bản của gia đình và cộng đồng điều
đã hổ trợ xã hội của chúng ta? Nó có phải là những phương tiện dễ dàng
bên ngoài của chúng ta – những máy móc, khoa học và kỷ thuật của chúng
ta? Chúng tôi không nghĩ như vậy.
Chúng
tôi tin rằng bất chấp những phát triển nhanh chóng được làm nên bởi văn minh
của thế kỷ, nguyên nhân trực tiếp nhất của sự tiến thoái lưỡng nan hiện tại của
chúng ta là sự nhấn mạnh quá mức trên phát triển vật chất đơn độc. Chúng
ta đang quá chú mục vào trong sự đuổi theo nó , mà ngay cả không có sự hiểu
biết nó, chúng ta đã hờ hửng đến khuyến khích, cổ vũ, nuôi dưỡng những việc cần
thiết căn bản nhất của nhân loại của yêu thương, ân cần, hợp tác và bảo
dưỡng. Nếu chúng ta không biết ai đấy hay tìm một lý do nào khác không
cảm nhận liên hệ với một cá nhân hay một nhóm đặc biệt nào đấy, chúng ta quên
lãng họ một cách đơn giản. Nhưng sự phát triển của xã hội nhân loại là
được đặt căn bản toàn bộ trên người giúp đở người. Một khi chúng ta đánh
mất căn bản thiết yếu của nhân tính, điều là nền tảng của chúng ta, thì đâu là
mục tiêu của sự mưu cầu chỉ trên sự phát triển vật chất?
Đối với
chúng tôi, nó thì rõ ràng: một nhận thức chân thành của trách nhiệm chỉ có thể
kết trái nếu chúng ta phát triển lòng từ bi yêu thương. Chỉ một cảm nhận
tự nhiên của lòng trắc ẩn với người khác có thể thật sự thúc đẩy chúng ta hành
động nhân danh họ. Chúng tôi đã giải thích làm thế nào phát triển lòng từ
bi yêu thương một nơi nào đấy. Cho phần còn lại ngắn ngũi này, chúng tôi
muốn thảo luận làm thế nào trong hoàn cảnh thế giới hiện tại có thể được cải
thiện bằng sự tin cậy lớn hơn trên trách nhiệm toàn cầu.
TRÁCH
NHIỆM TOÀN CẦU
Trước
nhất, nên lưu ý rằng chúng tôi không tin trong sự tạo thành những vận động hay
ủng hộ những học thuyết tư tưởng, chúng tôi cũng không thích việc dự tính thành
lập một tổ chức để ủng hộ cho một ý tưởng đặc biệt nào, điều mà hàm ý rằng một
nhóm riêng lẻ nào đấy chịu trách nhiệm để đạt đến mục tiêu ấy trong khi những
người khác thì miễn trừ. Trong tình trạng hiện tại của chúng ta, không ai
có đủ khả năng để đảm đương hay những ai khác sẽ giải quyết những vấn đề của
chúng ta, mỗi chúng ta phải góp phần chia xẻ trách nhiệm toàn cầu của chính
chúng ta. Trong cách này, như con số của sự quan tâm, trách nhiệm của
những cá nhân tăng lên, hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn hay cả hàng trăm nghìn
của những người như thế sẽ cải thiện bầu không khí chung một cách rộng lớn
hơn. Thay đổi tích cực không đến một cách nhanh chóng và đòi hỏi những cố
gắng đang xảy ra. Nếu chúng ta trở nên chán nản hay mất can đảm chúng ta
có thể không đạt đến ngay của những mục tiêu đơn giản nhất. Với sự liên
tục, thực thi quyết đoán, chúng ta có thể hoàn thành ngay cả những chủ đề khó
khăn nhất.
Chấp
nhận và nuôi dưỡng một quan điểm trách nhiệm toàn cầu là một vấn đề cá nhân
thiết yếu. Trắc nghiệm thực sự của lòng từ bi yêu thương không phải là
những gì chúng ta nói trong những cuộc thảo luận, những lý thuyết trừu tượng
không thực tế mà là chúng ta đã chỉ đạo, điểu khiển chính mình như thế nào
trong đời sống hằng ngày; thường, với những quan điểm nhất định nào đấy là căn
bản để thực hành chủ nghĩa vị tha.
Mặc dù
không một hệ thống chính phủ nào là toàn hảo, dân chủ là điều gần nhất với căn
bản thiết yếu tự nhiên của nhân loại. Vì thế những ai trong chúng ta yêu
mến dân chủ phải tiếp tục bày tỏ, hành động, đấu tranh cho quyền lợi này của
tất cả mọi người được làm như thế. Xa hơn nữa, dân chủ là nền tảng vững
chắc duy nhất trên một cấu trúc chính trị toàn cầu có thể được xây dựng.
Để hành động thống nhất, chúng ta phải tôn trọng quyền lợi của tất cả mọi người
và các quốc gia để duy trì những giá trị và tính cách đặc thù của chính họ.
Trong
chi tiết, một tác động to lớn rộng rãi sẽ được đòi hỏi để mang từ bi yêu thương
vào trong lãnh vực thương mại quốc tế. Sự khác nhau, không đồng đều, bất
bình đẳng kinh tế, đặc biệt giữa những nước phát triển và đang phát triển, duy
trì nguồn gốc lớn nhất của khổ đau trên hành tinh này. Ngay cả mặc dù họ
mất lợi nhuận trong giai đoạn ngắn, những công ty đa quốc gia lớn phải giảm bớt
sự lợi dụng, bóc lột các quốc gia nghèo. Tận khai thác một ít tài nguyên
quý giá của những quốc gia sở hữu chỉ đơn giản cung cấp cho chủ nghĩa tiêu dùng
ở thế giới phát triển như vậy là tai họa, là bất hạnh; nếu nó tiếp tục không
kiểm soát, tất cả chúng ta sẽ cùng khổ đau. Việc làm mạnh những nền kinh
tế yếu và trì trệ là một chính sách khôn ngoan xa hơn nhiều để đẩy mạnh sự một
cách vững vàng cả kinh tế lẫn chính trị. Duy tâm hay nhân tâm nó có thể
gọi như thế, chủ nghĩa vị tha, không chỉ tranh đua và khát vọng của thịnh
vượng, nên được đẩy mạnh trong thương mại.
Chúng
ta cũng cần làm mới sự hiến dâng của chúng ta đến những giá trị nhân bản trong
lãnh vực của khoa học hiện đại. Mặc dù mục tiêu chính của khoa học là để
học hỏi thêm về thực tại, và những mục tiêu khác là để làm tiến bộ phẩm chất
của đời sống. Không có động cơ vị tha, những khoa học gia không thể phân
biệt giữa những kỷ thuật lợi ích và những thứ đơn thuần vị kỷ. Tổn hại
của môi trường chung quanh chúng ta là chứng minh rõ ràng nhất của kết quả của
sự sai lạc này, nhưng động cơ chính có thể ngay cả thích đáng hơn chủ yếu là
chúng ta quản lý thế nào với sự bố trí độc đáo mới cuả những kỷ thuật sinh học
với điều mà giờ đây chúng ta có thể kiểm soát cấu trúc tinh vi tế nhị của
tự chính đời sống. Nếu chúng ta không căn cứ mỗi hành động trên một nền
tảng đạo đức, chúng ta hành động mạo hiểm kéo theo nguy hại lớn lao trên hoàn
cảnh mong manh dễ đổ vở của đời sống.
Những
tôn giáo của thế giới cũng không miễn trừ, hay không mang lấy trách nhiệm
này. Mục tiêu của tôn giáo không phải để kiến tạo những Thánh đường, Phật
đường, Đền thờ lộng lẩy xinh đẹp, mà để phát triển những phẩm chất tích cực của
con người như là bao dung, phóng khoáng, rộng rãi và yêu thương. Mỗi tôn
giáo thế giới, không kể quan điểm triết lý thế nào, được khai sinh, sáng lập,
xuất hiện trên cuộc đời trước nhất và trước hết trên giáo huấn là chúng ta phải
làm nhỏ lại cái bản ngã và phục vụ kẽ khác. Bất hạnh thay, thỉnh thoảng tôn
giáo chính nó lại là nguyên nhân của những mối bất hòa hơn là giải quyết xung
đột. Hành giả của những tín ngưỡng khác nhau nên nhận thức rằng mỗi
truyền thống tôn giáo có giá trị bao la bên trong và những ý nghĩa để cung cấp
nghị lực tinh thần và sức khỏe tâm linh. Một tôn giáo, giống như một loại
thực phẩm đặc hữu không thể làm hài lòng tất cả mọi người. Theo những
khuynh hướng tinh thần khác nhau, một số người thích hợp và được lợi ích từ tôn
giáo này, số người khác từ tôn giáo khác. Mỗi tín ngưỡng có khả năng sản
sinh những con người cao thượng tốt lành, nhiệt tâm tốt bụng và mặc dù họ tán
thành những triết lý thường mâu thuẫn nhau, tất cả những tôn giáo thành công
trong việc làm này. Vì vậy không có lý do gì để sa vào trong sự mù quáng
tôn giáo gây bất hòa và thiếu bao dung; mà mỗi lý do là để yêu mến và tôn trọng
tất cả những hình thức thực hành tâm linh.
Một
cách chắc chắn, lãnh vực quan trọng nhất để gieo những hạt giống của chủ nghĩa
vị tha to lớn hơn là những quan hệ quốc tế. Trong vài năm qua thế giới đã
thay đổi một cách ấn tượng. Chúng tôi nghĩ tất cả chúng ta sẽ đồng ý rằng
sự chấm dứt chiến tranh lạnh và sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu và
Liên Sô đã báo hiệu một kỷ nguyên mới. Khi chúng ta bước qua thập
niên những năm 1990 dường như nhân loại đã hoàn toàn trải qua thế kỷ hai mươi
trọn vẹn.
Điều đã
là một điểm đau đớn nhất của lịch sử nhân loại, thời gian khi, do bởi sự gia
tăng rộng rãi những vũ khí tàn phá, nhiều người hơn đã khổ đau và chết bởi bạo
động hơn bao giờ hết trong quá khứ. Xa hơn nữa, chúng ta cũng đã chứng
kiến một cuộc tranh đua gần như kết thúc giữa những tư tưởng căn bản những điều
luôn luôn xé chia cộng đồng nhân loại: một phía là sức mạnh và quyền lực sống
sượng; phía kia là tự do, đa nguyên, những quyền cá nhân và dân chủ.
Chúng tôi tin tưởng rằng những kết quả của sự thi thố to lớn này thì đã rõ
ràng. Mặc dù tâm tư nhân loại tuyệt hảo của hoà bình, tự do và dân chủ
vẫn đối diện nhiều hình thức của bạo quyền chuyên chế, hiểm ác và trái đạo đức,
mặc dù vậy một sự kiện không lầm lẫn là đại đa số nhân loại ở khắp mọi nơi mong
muốn điều ấy giành thắng lợi. Vì vậy những thảm kịch trong thời gian này
của chúng ta hoàn toàn không có lợi ích, và trong nhiều trường hợp là những ý
nghĩa đúng đắn vì tâm tư nhân loại đã khai thông. Sự sụp đổ của chủ nghĩa
cộng sản minh chứng cho điều này.
Mặc dù
chủ nghĩa cộng sản (những người khai sinh cộng sản chủ nghĩa) chủ trương nhiều
tư tưởng cao quý, kể cả chủ nghĩa vị tha, những những hành vi quản lý của những
người chọn lọc (xuất sắc-ưu tú?) độc đoán (chuyên chính vô sản) với những quan
điểm của họ đã chứng tỏ tai hại. Những chính quyền này đã trải dài sự
khắc nghiệt kinh khiếp để kiểm soát toàn bộ sự lưu thông tin tức xuyên
suốt những xã hội của họ cho đến cấu trúc của hệ thống giáo dục và vì vậy
những công dân hay nhân dân của họ mà họ gọi là những người làm chủ xã hội chỉ
có thể lao động vì miếng cơm manh áo. Mặc dù tổ chức cứng rắn có thể cần
thiết trong lúc đầu để phá bỏ những chế độ đàn áp thống trị áp bức trước kia, nhưng
một khi mục tiêu đã được đáp ứng, tổ chức có rất ít (nhỏ nhoi) cống hiến đối
với việc xây dựng một cộng đồng nhân loại hữu dụng. Chủ nghĩa cộng sản
thất bại hoàn toàn vì nó dựa trên sức mạnh (bạo lực cách mạng) để thúc đẩy niềm
tin của nó. Cuối cùng, tính tự nhiên của con người không thể chống cự
nổi, chịu đựng nổi với những khổ đau mà nó sản sinh ra.
Bạo
lực, sức mạnh hoang dã, thú tính, phi nhân dù có áp dụng mạnh mẽ thế nào đi
nữa, cũng không bao giờ khuất phục được căn bản khao khát tự do của con người.
Hàng trăm nghìn người diễn hành ở các phố thị Đông Âu đã chứng minh cho điều
này. Người ta chỉ biểu lộ sự cần thiết của con người cho tự do và dân
chủ. Nó rất linh động. Người ta không đòi hỏi phải làm bất cứ điều
gì với những tư tưởng mới; những người này chỉ đơn giản nói lên từ con tim của
họ, chia xẻ những khao khát cho tự do, sự biểu tình tuần hành biểu lộ rằng nó
sản sinh từ trong cốt lõi của con người tự nhiên, của tự nhiên tính. Tự
do, trên thực tế, là cội nguồn chính của sáng tạo cho cả cá nhân và xã
hội. Thật không đủ, khi hệ thống cộng sản cho rằng chỉ cung cấp cho
người ta thực phẩm, chỗ cư trú, và áo quần. Nếu chúng ta có tất cả những
thứ ấy nhưng thiếu vắng không khí quý báo của giải thoát,của tự do để duy trì
tính tự nhiên sâu sắc hơn của chúng ta, chúng ta chỉ phân nữa là loài người;
chúng ta giống như loài vật nếu chỉ hài lòng với những nhu cầu cầu sinh vật lý
của chúng.
Chúng
tôi nghĩ rằng những cuộc cách mạng hòa bình ở Liên bang Sô viết củ và Đông Âu
đã dạy cho chúng ta nhiều bài học rộng lớn. Một là giá trị của sự
thật. Người ta không muốn bị áp bức khủng bố, gian dối hay lừa mị cho dù
bởi một cá nhân hay một hệ thống. Những hành động như vậy mâu thuẫn,
tương phản hay trái ngược với căn bản tâm linh con người. Vì vậy, ngay cả
mặc dù những ai đấy hành động lừa mị hay sử dụng bạo lực để đạt những thành
công đáng kể ngắn hạn, cuối cùng họ sẽ bị lật đổ.
Mặt
khác, mọi người hiểu rõ giá trị, đánh giá cao sự thật, và tôn trọng sự thật vì
nó thật sự ở trong máu huyết chúng ta. Sự thật là người bảo đảm tốt nhất
và nền tảng thật sự của tự do và dân chủ. Chẳng hề gì, cho dù chúng ta
yếu hay chúng ta mạnh hay cho dù mục tiêu hay sự nghiệp của chúng ta nhiều
người hay ít người tán thành, hay tham gia, sự thật vẫn sẽ chiến thắng.
Sự kiện là những động cơ thành công của tự do năm 1989 và sau đấy đã căn cứ
trên một thông điệp đúng đắn của những nhận thức căn nhất của con người là một
giá trị nhắc nhở rằng sự thật tự nó vẫn là một thiếu vắng nghiêm trọng rất
nhiều trong đời sống chính trị. Một cách đặc biệt trong sự chỉ đạo, hướng
dẫn, điều khiển những quan hệ quốc tế chúng ta dành rất ít tôn trọng đến
sự thật. Một cách vẫn thường thấy, những quốc gia yếu bị lôi kéo và đè
nén bởi những quốc gia mạnh hơn, như những khu vực của những xã hội khổ đau
nhất nằm trong tay của những vùng thịnh vượng và mạnh hơn. Mặc dù trong
quá khứ, thông điệp đơn giản của sự thật thường bị gạt bỏ như không thực tế,
những năm sau cùng vừa qua chứng tỏ rằng nó là một sức mạnh rộng lớn từ trong
tâm con người, và như một kết quả, trong sự thể hiện cụ thể của lịch sử.
Bài học
vĩ đại thứ hai từ Đông Âu đấy là một sự chuyển biến hòa bình. Trong quá
khứ, những người nô lệ thường dùng đến bạo động trong sự đấu tranh cho tự
do. Ngày nay, bước theo dấu chân của Thánh Gandhi và Martin Luther
King, Jr., những cuộc cách mạng hòa bình đã cống hiến cho những thế hệ tương
lai một thí dụ tuyệt diệu của sự thay đổi bất bạo động thành công. Khi
những sự thay đổi lớn của xã hội trong tương lai lại cần thiết, con cháu chúng
ta sẽ có thể nhìn lại thời gian hiện tại như một kiểu mẫu của đấu tranh bằng
hòa bình, một câu chuyện thành công thật sự không thể đo lường chưa từng có,
liên hệ cả tá quốc gia và hàng trăm triệu người. Hơn bao giờ hết, những
sự kiện vừa qua đã chỉ cho thấy rằng khao khát cho cả hòa bình và tự do dựa
trên trình độ căn bản nhất của tính tự nhiên loài người và bạo động là sự đối
lập hoàn toàn của nó.
Trước
khi xem xét đến loại nào của trật tự toàn cầu sẽ phụng sự chúng ta tốt nhất
trong thời kỳ hậu Chiến Tranh Lạnh, chúng tôi nghĩ thật quan trọng để nói về
vấn đề bạo động, sự xóa bỏ ở mọi trình độ là căn bản cần thiết cho hòa bình thế
giới và là căn bản thiết yếu của bất cứ trật tự quốc tế nào.
BẤT
BẠO ĐỘNG VÀ TRẬT TỰ QUỐC TẾ
Mỗi
ngày những báo cáo những việc xảy ra về khủng bố, tội phạm và chiến tranh xâm
lược. Chúng tôi chưa từng ở một xứ sở
nào mà những câu chuyện thảm kịch về chết chóc và chém giết đổ máu không có
trên báo chí hay truyền thanh, truyền hình.
Những báo cáo như vậy hầu như đã trở thành thú say mê của những phóng
viên báo chí và khán thính giả của họ tương tự như thế. Nhưng tuyệt đại đa số loài người không có
thái độ tiêu cực hay không xây dựng hay
phá hoại, rất ít trong số năm tỉ người trên hành tinh này thật sự có những hành
động liên lũy vào bạo động. Hầu hết
chúng ta thích được sống hòa bình, thanh bình, yên bình như có thể được.
Một
cách căn bản, tất cả chúng ta yêu mến sự tĩnh lặng thanh bình, ngay cả những ai
đó trong chúng ta đã có những hành vi bạo động.
Thí dụ, khi mùa xuân đến, ngày trở nên dài hơn, có nhiều ánh nắng hơn, cỏ
cây dường như sống lại và mọi thứ rất
xinh tốt. Con người cảm thấy hạnh phúc vui tươi. Mùa thu đến, một lá vàng rơi, rồi một lá khác
tiếp theo, tiếp theo, rồi thì tất cả những hoa lá đẹp đẻ tốt tươi chết đi cho đến khi chung quanh chúng ta toàn
những cành trụi lá. Chúng ta không cảm
thấy vui. Tại sao thế? Bởi vì trong sâu thẩm, chúng ta khao khát dựng
xây, kết trái và không thích những thứ đổ
vở hay bị tàn phá. Mọi thứ hành vi tàn phá chống lại căn bản tự nhiên của chúng
ta; sự xây dựng, được kiến tạo là con đường của con người.
Chúng
tôi chắc rằng mọi người đồng tâm nhất trí rằng chúng ta phải vượt thắng bạo động,
nhưng nếu chúng ta xóa bỏ nó hoàn toàn, chúng ta nên trước hết phân tích chúng
có hay không có bất cứ giá trị nào.
Nếu
chúng ta công bố câu hỏi này từ một viễn cảnh thực tiễn và nghiêm chỉnh, chúng
ta thấy rằng trên một số trường hợp nào đấy bạo động quả thực hữu dụng. Một người có thể giải quyết vấn đề nhanh
chóng bằng bạo lực. Tuy nhiên cùng lúc ấy,
những thành tựu như thế phải thường vì mở rộng lợi ích và quyền lợi cho những
người khác. Như một kết quả, ngay cả mặc
dù một vấn đề đã được giải quyết, hạt giống của thứ khác đã được gieo xuống.
Mặc
khác, nếu một nguyên nhân được hổ trợ bởi lý do đúng đắn, hợp lý có cơ sở, thì
không điểm nào để sử dụng bạo lực. Đấy
là những ai không có động cơ nào hơn là khát vọng vị kỷ và những ai không thể đạt
đến mục đích thông qua lý do hợp lý, những ai dựa vào sức mạnh. Ngay cả khi gia đình và thân hữu không đồng
ý, những ai với những lý do vững chắc có thể nêu gương cho những người khác và
tranh luận trường hợp của họ từng điểm một, trái lại những ai với chút ít hổ trợ
của lý lẻ mau chóng rơi vào giận dữ. Vì
vậy giận dữ không là một biểu hiện của sức mạnh mà là một sự yếu đuối.
Một
cách căn bản, thật quan trọng để thử nghiệm động cơ của chính mình và người đối
diện. Có nhiều loại bạo động và bất bạo
động, chúng ta có thể phân biệt chúng từ những nhân tố ngoại tại. Nếu một động cơ là tiêu cực, hành động nó sản
sinh là, trong cảm nhận sâu thẩm nhất, bạo động, ngay cả mặc dù nó có thế xuất
hiện dường như êm ái và dịu dàng. Ngược
lại nếu một động cơ là chân thành và tích cực nhưng hoàn cảnh đòi hỏi thái độ
khắc nghiệt, một cách căn bản họ đang thực hành bất bạo động. Không cần biết vấn đề là gì, chúng tôi nghĩ
rằng từ bi yêu thương quan tâm đến lợi ích những người khác - không phải cho chính bản thân ai đấy – là sự
phán xét duy nhất cho sử dụng bạo lực.
Sự
thực hành chân thành bất bạo động vẫn là những gì thử nghiệm trên hành tinh của
chúng ta, nhưng sự theo đuổi của nó, đặt cơ sở trên tình thương và sự hiểu biết,
là thánh thiện. Nếu sự thử nghiệm này
thành công, nó có thể mở ra con đường hòa bình xa hơn của thế giới trong thế kỷ
này.
Chúng
tôi từng nghe trường hợp những người phương Tây đề cập rằng hình thức lâu dài đấu
tranh dùng bất bạo động thụ động đề kháng của Thánh Gandhi không thích hợp với
mọi người và những chiều hướng hành động như thế tự nhiên hơn với người Phương
Đông. Bởi vì người Phương Tây là hoạt động,
họ hướng tìm một kết quả lập tức trong tất cả mọi trưởng hợp, ngay cả cái giá của
mạng sống. Điều tiếp cận này, chúng tôi
tin tưởng là, không phải luôn luôn thuận lợi.
Nhưng chắc chắn là sự thực hành bất bạo động thích hợp cho tất cả mọi
người. Nó đơn giản kêu gọi cho sự quyết
tâm. Ngay cả tiến trình tự do của Đông
Âu đạt đến mục tiêu một cách nhanh chóng, chống đối bằng bất bạo động bởi chính
tính tự nhiên của nó thường đòi hỏi sự kiên nhẫn.
Trong
sự quan tâm này, chúng tôi cầu nguyện rằng cho dù sự đàn áp tàn bạo và những
khó khăn của đấu tranh mà họ đối diện, những ai liên hệ đến tiến trình dân chủ ở
China sẽ luôn luôn duy trì một cách hòa bình.
Chúng tôi tin tưởng rằng họ sẽ thành công. Mặc dù hầu hết những học sinh, sinh viên trẻ
China liên hệ đã được sinh ra và nuôi dưỡng lớn lên trong một hình thức khe khắc
của chủ nghĩa Cộng sản, nhưng trong mùa xuân 1989 họ đã tự phát thực hành tiến
trình đấu tranh thụ động của Thánh Gandhi.
Điều này thật xuất sắc, phi thường và đặc biệt và chỉ rõ ràng rằng căn bản
của tất cả loài người là muốn theo đuổi con dường hòa bình, bất chấp là họ đã bị
tuyên truyền nhồi nhét bao nhiêu lâu.
THỰC
CHẤT CỦA CHIẾN TRANH
Dĩ
nhiên, chiến tranh và lực lượng quân đội
lớn được thành lập là nguồn gốc lớn nhất của bạo động trên thế giới. Cho dù mục đích của họ là phòng vệ hay tấn
công, những tổ chức quân sự rộng lớn này tồn tại chỉ để giết hại loài người. Chúng ta nên suy nghĩ thật cẩn thận về thực
chất của chiến tranh. Hầu hết chúng ta
đã từng có điều kiện để lưu tâm chiến sĩ hành quân là sôi nổi và vinh quang – một
cơ hội để những người trai chứng tỏ năng lực và can đảm của họ. Vì quân đội là hợp pháp, chúng ta cảm thấy rằng
chiến tranh là có thể chấp nhận; thông thường, không ai cảm thấy rằng chiến
tranh là tội phạm hay chấp nhận nó là một thái độ tội lỗi. Thực tế, chúng ta đã bị nhồi sọ. Chiến tranh không vinh quang cũng không hấp dẫn. Nó là hoàn toàn vô lý. Ngay bản chất tự nhiên
của nó là một trong những thứ của thảm cảnh và khổ đau.
Chiến
tranh giống như lửa trong cộng đồng nhân loại, nhiên liệu của một sinh vật đang
sống. Chúng tôi tìm thấy sự tương tự hữu
ích và thích đáng này. Chiến tranh hiện
đại được tiến hành chủ yếu với nhiều hình thức khác nhau của lửa, nhưng chúng
ta có điều kiện để thấy nó khi rùng mình hay ly kỳ, hồi hộp rằng chúng ta nói về
điều này hay vũ khí kỳ vĩ như một mãnh đặc biệt của kỷ thuật mà không nhớ rằng,
nó có thật sự hữu dụng hay không, nó sẽ thiêu đốt nhân loại. Chiến tranh cũng mạnh mẻ giống như lửa trong
cách nó lan tỏa. Nhưng bởi vì chúng ta
đã bị tẩy não để để nghĩ cách này, chúng ta không quan tâm đến sự khổ đau của
cá nhân những chiến sĩ. Không một chiến
binh nào muốn bị thương hay chết; không một ai trong những người yêu của họ muốn
bất cứ sự tổn hại nào đến với anh ta. Nếu
một chiến sĩ bị giết, hay bị thương tật suốt đời, ít nhất năm hay mười người
khác thân nhân hay bằng hữu của họ cũng khổ đau như thế. Chúng ta tất cả nên kinh sợ với quy mô của thảm
cảnh này, nhưng chúng ta quá mơ hồ, rối rắm, lầm lạc để nghĩ về điều này.
Thẳng
thắn mà nói, khi là một cậu bé, chúng tôi cũng bị hấp dẫn với quân đội. Quân phục của họ trông thật rạng rở, xinh xắn,
và oai vệ. Nhưng đó chắc chắn là sự quyến
rũ, cám dỗ bắt đầu. Trẻ con bắt đầu những
trò chơi sẽ hướng chúng đến phiền toái một ngày nào đấy. Có hàng khối những trò chơi và trang phục
khác hơn là những thứ căn cứ trên sự giết hại nhân loại. Một lần nữa, nếu chúng ta là những bậc trưởng
thượng, những người trưỡng thành không quá bị lôi cuốn bởi chiến tranh, chúng
ta sẽ thấy rõ ràng rằng cho phép con em chúng ta trở nên quen thuộc với những
trò chơi chiến tranh là cực kỳ tai hại về sau.
Một vài cựu chiến binh nói với chúng tôi rằng khi họ bắn người đầu tiên
họ cảm thấy không thoải mái nhưng khi họ tiếp tục bắn giết nó bắt đầu cảm thấy
rất bình thường. Cũng thế, cùng lúc
chúng ta có thể trở nên quen thuộc với bất cứ thứ gì.
Không
phải chỉ trong thời gian chiến tranh những tổ chức quân sự mới phá hoại bởi sự
ngay sự cấu trúc của họ, họ là những cá nhân vi phạm nhân quyền lớn nhất, và tự
những chiến binh những người khổ đau một
cách có hệ thống từ sự lạm dụng của họ.
Sau khi những cấp chỉ huy đã đưa ra những giải thích tuyệt đẹp về sự
quan trọng của quân đội, kỷ luật của nó và sự cần thiết phải khuất phục kẻ thù,
những quyền của đại đa số quân nhân bị cướp mất hầu như toàn bộ. Rồi thì họ bị thúc ép để từ bỏ ý chí cá nhân
của họ, và , cuối cùng hy sinh mạng sống của họ. Hơn thế nữa, một khi quân đội
trở thành một năng lực hùng mạnh, thì mọi thứ rủi ro mà nó có thể cướp mất hạnh
phúc của chính nước đó.
Có
những hạng người với những ý định phá hoại trong mọi xã hội, và cám dỗ chiếm được
sự lãnh đạo một tổ chức có thể đáp ứng những khát vọng của họ có thể trở nên
không chống lại được. Nhưng chẳng kể sự
hiểm độc hay tàn ác thề nào của nhiều kẻ độc tài giết người những kẻ đang đè nặng
xứ sở của họ và tạo nên những vấn nạn quốc tế, rõ ràng là họ không thể làm hại
kẻ khác hay tàn phá đời sống của vô số người khác nếu họ không những tổ chức
quân sự chấp nhận và xã hội lượng thứ.
Cho đến khi nào có những lực lượng quân đội hùng mạnh thì sẽ luôn luôn
có sự nguy hiểm của những chế độ độc tài.
Nếu chúng ta thật sự tin tưởng độc tài là một hình thức chính quyền đáng
khinh, xấu xa, và phá hoại, thế thì chúng ta phải nhận thức rằng sự tồn tại của
những lực lượng quân đội hùng mạnh là một trong những nguyên nhân chính của nó.
Chủ
nghĩa quân sự cũng rất mắc mõ, tốn kém.
Theo đuổi hòa bình bằng những vị trí với những lực lượng quân sự mạnh mẻ
một sự phung phí vô cùng tận đè nặng trên xã hội. Những chính quyền dành những chi phí lớn lao
để tăng cường kho vũ khí phức tạp khó hiểu, khi mà, thật tế, chẳng ai thật sự
muốn dùng chúng. Không chỉ tiền của
nhưng cũng là những nguồn năng lượng giá
trị và sự thông minh của con người bị hoang phí, trong khi tất cả những sự tăng
cường ấy là vì sợ.
Chúng
tội muốn làm rõ, tuy thế, mặc dù chúng đối kháng sâu sắc với chiến tranh, chúng
tôi không đang bào chửa làm cho nguôi dịu đi.
Cần thường xuyên giành lấy một thế đứng mạnh mẻ công kích chống lại bất
công. Thí dụ, thật đơn giản rõ ràng đối
với tất cả chúng ta Thế chiến Thứ hai minh chứng là hoàn toàn đúng. Nó “cứu nền văn minh” khỏi sự bạo ngược của
chủ nghĩa Phát xít Quốc xã, như Winton Churchill rất khéo léo đặt nó. Trong quan điểm của chúng tôi, Chiến tranh Đại
Hàn cũng chính nghĩa như thế, vì nó đã ban cho Nam Hàn cơ hội dần dần phát triển
dân chủ. Nhưng chúng ta chỉ có thế đánh
giá một xung đột được chứng minh, bào chửa trên bình diện hoặc đạo đức hay là
không với nhận thức muộn màng. Ví dụ,
chúng ta bây giờ có thể thấy trong thời Chiến Tranh Lạnh, yếu tố căn bản ngăn
chặn vũ khí hạt nhân có một giá trị chắc chắn.
Mặc dù thế, thật rất khó khăn để đánh giá tất cả những sự kiện như thế với
bất cứ trình độ nào một cách đúng đắn.
Chiến tranh là bạo động và bạo động thì không thể tiên liệu được. Vì thế, thật tốt hơn là tránh nó nếu có thể,
và đừng bao giờ quá tự tin rằng chúng tôi biết trước hoặc kết quả rồi ra của một
cuộc chiến nào đấy là có lợi hay không.
Thí
dụ, trong trường hợp của Chiến Tranh Lạnh, mặc dù sự ngăn chặn có thể hổ trợ
tăng tiến sự ổn định,nhưng nó không tạo nên một nền hòa bình chân thành. Bốn mươi năm trở lại đây, ở Âu Châu chỉ thấy
vắng bóng của chiến tranh, điều không là một nền hòa bình thật sự nhưng là một
bản sao chép tìm thấy trên sợ hải. Tốt
nhất, xây dựng quân đội để duy trì hòa bình phục vụ chỉ như một giới hạn tạm thời.
Cho đến khi mà những đối tác vẫn không tin tưởng lẫn nhau, bất cứ con số nào của
những nhân tố cũng có thể làm rối loạn sự cân bằng sức mạnh. Cuối cùng hòa bình chỉ có thể bảo đảm trên
căn bản của lòng tin chân thành.
GIẢI
TRỪ QUÂN BỊ VÌ HÒA BÌNH THẾ GIỚI
Qua
chiều dài lịch sử, con người đã từng theo đuổi hòa bình bằng cách này hay cách
khác. Có lạc quan lắm không khi tưởng tượng
rằng có thể cuối cùng hòa bình thế giới sẽ trong tấm tay của chúng ta? Chúng
tôi không tin rằng đã có một sự tăng gia đối với lòng thù hận của loài người,
chỉ là trong khả năng để biểu lộ nó trong hàng loạt vũ khí tàn phá. Mặt khác,
chịu chứng kiến những bằng chứng thảm thương của sự tàn sát hàng loạt do
những vũ khí như thế trong thời đại của chúng ta đã cho chúng ta cơ hội để kiểm
soát chiến tranh. Để làm thế, rõ ràng chúng ta phải giải trừ
quân bị.
Giải
trừ quân bị chỉ có thể xảy ra trong khung cảnh của những mối quan hệ chính trị
và kinh tế mới. Trước khi chúng ta lưu ý
đến những chỉ tiết của vấn đề này, thật
đáng giá để tưởng tượng đến loại tiến trình hòa bình mà chúng ta có thể lợi lạc
nhất. Điều này thật công bằng với tự
chính những bằng chứng của nó. Trước nhất,
chúng ta nên hành động loại bỏ vũ khí nguyên tử, tiếp đến, những vũ khí sinh học
và hóa học, rồi đến vũ khí tấn công, và cuối cùng, vũ khí tự vệ. Cùng lúc, để bảo vệ hòa bình, chúng ta nên bắt
đầu phát triển trong một hay nhiều vùng của địa cầu một lực lượng cảnh binh quốc
tế được xây dựng nên bằng số lượng bình đẳng của những thành viên từ những quốc
gia dưới một sự chỉ huy tập thể. Cuối
cùng lực lượng này sẽ bao trùm toàn thế giới.
Bởi
vì tiến trình song song của giải trừ quân bị và phát triển một lực lượng hổn hợp
sẽ là cả nhiều phía và dân chủ, quyền lợi của đa số để phê phán ngay cả can thiệp
vào sự kiện một quốc gia vi phạm những nguyên tắc cơ bản phải được bảo đảm. Hơn thế nữa, với tất cả những lực lượng quân
đội rộng lớn bị giải tán và tất cả những xung đột như vấn đề tranh cải biên giới
đến việc kiểm soát lực lượng hổn hợp quốc tế, những quốc gia lớn và nhỏ phải
bình đằng thật sự. Những cải cách như thế
sẽ có kết quả trong một môi trường quốc tế ổn định.
Dĩ
nhiên, số lượng tài chính khổng lồ dành có từ việc ngừng sản xuất vũ khí sẽ cung
cấp một lượng tiền của vô cùng to lớn cho việc phát triển địa cầu. Ngày nay những quốc gia trên thế giới dành
hàng nghìn tỷ đô la hàng năm để duy trì lực lượng quân sự. Chúng ta có thể nào tưởng tượng bao nhiêu giường
cho bệnh viện, trường học và nhà cửa mà số tiền ấy có thể dùng để xây dựng
nên? Thêm nữa, như chúng tôi đã lưu ý ở
trên, một tỉ lệ vô cùng to lớn của những
tài nguyên hiếm hoi hoang phí trên việc phát triển quân sự không chỉ ngăn ngừa
xóa bỏ nghèo đói, mù chữ, và bệnh tật, nhưng cũng đòi hỏi việc hy sinh sự thông
minh quý giá của con người. Những nhà
khoa học của chúng ta cực kỳ sáng suốt.
Tại sao sự thông tuệ của họ lại có thể để bị phung phí trên những nổ lực khủng khiếp như vậy khi
nó có thể dùng cho những phát triển tích cực của địa cầu?
Những
sa mạc rộng lớn của thế giới như Sahara và Gobi có thể được phát triển để gia
tăng sản xuất thực phẩm và giải tỏa mật độ dân số. Nhiều quốc gia giờ đây hàng năm đối diện với
nạn khô hạn khốc liệt. Những phương pháp
mới và ít tốn kém của việc lọc nước mặn có thể phát triển làm cho nước biển
thích hợp cho sự tiêu dùng của con người và những việc khác. Có nhiều vấn đề thúc bách trên phạm vi của
năng lượng và sức khỏe mà những nhà khoa học có thể toàn tâm toàn ý hữu ích
hơn. Vì kinh tế thế giới sẽ phát triển
nhanh hơn như một kết quả của những ảnh hưởng của họ, họ có thể ngay cả chú tâm
nhiều hơn! Hành tinh của chúng ta may mắn
với những kho tàng tài nguyên thiên nhiên rộng lớn. Nếu chúng ta dùng chúng đúng đắn, bắt đầu với
việc loại bỏ chủ nghĩa quân phiệt và chiến tranh, thật sự mỗi người sẽ có thể sống
trong một sự thịnh vượng và chăm sóc tốt đẹp trọn đời.
Cố
nhiên hòa bình trên địa cầu không thể xảy ra ngay lập tức. Vì những điều kiện chung quanh thế giới rất
phức tạp, sự trải rộng của nó cũng phải được lớn lên. Nhưng không có lý do tại sao nó không thể bắt
đầu trên một khu vực và rổi thì lan rộng dần dần từ lục địa này đến lục địa
khác.
Tôi
muốn đề xuất rằng những cộng đồng khu vực như Liên Hiệp Âu Châu được hình thành
như một phần cụ thể của một thế giới hòa binh hơn mà chúng ta đang cố gắng để tạo
nên. Hãy nhìn môi trường của chiến tranh
lạnh một cách khách quan, những cộng đồng
như thế thật là thẳng thắn, rõ ràng, mộc mạc là những thành phần cấu thành tự
nhiên nhất của một trật tự thế giới mới.
Như chúng ta có thể thấy, sự thu hút hấp dẫn của sự lớn mạnh tương quan
lẫn nhau đòi hỏi những cấu trúc hợp tác mới mẻ hơn. Liên Hiệp Âu Châu đang mở con đường trong sự
đối thoại và cố gắng này, sự cân bằng tế nhị giữa kinh tế, quân sự, và chính trị
chung trên một mặt và mặt khác là chủ quyền độc lập của những quốc gia thành
viên. Chúng tôi hào hứng tột bực với việc
làm này. Chúng tôi cũng tin rằng Cộng đồng
các Quốc gia Độc lập Mới đang nắm bắt, thấu hiểu những vấn đề tương tự như thế
và những hạt giống của một cộng đồng như thế đã hiện diện rồi trong những tâm hồn
của nhiều nước cộng hòa hình thành nên nó.
Trong bài này, chúng tôi muốn tóm tắt nói về tương lai của cả đất nước
chúng tôi, Tây Tạng, và China.
Giống
như Liên Bang Sô Viết cũ, China Cộng sản là một quốc gia đa chủng, đa văn hóa,
nhiều khu vực tự trị, cấu thành dưới sự thúc đẩy của tư tưởng bành trướng và cho đến bây giờ được cai trị bởi sức mạnh
trong hình thức thuộc địa. Một tương lai
hòa bình, thịnh vượng trên tất cả sự ổn cố chính trị tùy thuộc trong sự thành
công hoàn toàn không chỉ trên sự ao ước của chính nhân dân cho một hệ thống cởi
mở và dân chủ hơn, mà cũng tùy thuộc vào những người của tám mươi triệu được gọi
là “những nhóm thiểu số quốc gia” những người muốn đạt được tự do. Vì hạnh phúc thật sự trở lại trái tim của
Châu Á – ngôi nhà của một phần năm nhân loại – một cộng đồng hiệp tác hổ tương,
dân chủ, đa nguyên của những quốc gia độc lập có chủ quyền phải được thay thế
cái được gọi hiện nay là Cộng Hòa Nhân Dân China. Dĩ nhiên, một cộng đồng như thế không cần hạn
chế trong những vùng hiện nay dưới sự thống trị của Cộng sản China, như những
người Tây Tạng, Uy Ngô Nhĩ, và Nội Mông.
Những người Hồng Công, những người đang tìm kiếm độc lập ở Đài Loan, và
tất cả những quốc gia Đông Á và Đông Nam Á cũng có thể thích thú, hào hứng,
trong việc xây dựng một Cộng Đồng Á Châu.
Tuy thế, đặc biệt khẩn thiết đối với những ai dưới sự thống trị của Cộng
sản China lưu tâm làm như thế. Chắc chắn
mục tiêu là để có thể cứu China khỏi một sự tan rả trong bạo động, lãnh chúa địa
phương và trở lại sự hổn lộn và rối loạn đã làm đau đớn khổ sở quốc gia vĩ đại
này trong thế kỷ hai mươi vừa qua. Hiện
tại đời sống chính trị tại China quá phân cực và có mọi lý do để lo sợ cho một
thảm kịch sẽ xảy ra. Mỗi chúng ta-mỗi
thành viên của cộng đồng thế giới- có một trách nhiệm đạo đức để hổ trợ ngăn chặn
một sự khổ đau rộng lớn mà sự xung đột có thể xảy ra cho một quốc gia đông nhất
dân trên thế giới.
Chúng
tôi tin tưởng rằng, tiến trình đối thoại, tiết chế và thỏa hiệp liên hệ trong
việc xây dựng một cộng đồng của những quốc gia Á Châu sẽ tự nó cho một hy vọng
thật sự của sự tiến triển đến một trật tự mới của China. Từ lúc mới bắt đầu, những quốc gia thành viên
của một cộng đồng như thế có thể đồng ý nhất trí để quyết định chính sách phòng
vệ và quan hệ quốc tế cùng với nhau. Sẽ
có nhiều cơ hội cho sự hiệp tác. Điểm
quan yếu là chúng ta tìm một phương thức hòa bình và bất bạo động cho nổ lực tự
do, dân chủ và tiết chế để tiến đến thành công hoàn toàn từ không khí đàn áp và
bất công hiện tại.
NHỮNG
VÙNG CỦA HÒA BÌNH
Chúng
tôi nhìn Tây Tạng trong một Cộng đồng Á Châu như thế khi chúng tôi đã đề cập
trước gọi là “Một Khu Vực của Hòa Bình” : một nơi tôn nghiêm, một khu bảo tồn
thiên nhiên trung lập và phi quân sự, nơi mà những vũ khí bị cấm chỉ, và con
người sống hòa hiệp với thiên nhiên. Điều
này không chỉ đơn thuần là một giấc mơ – nó hoàn toàn đúng với cung cách con
người Tây Tạng nổ lực để sống qua hàng nghìn năm trước khi đất nước chúng tôi bị
xâm lăng. Như mọi người đã biết, ở Tây Tạng tất cả những hình thái của đời sống
hoang dã thật sự được bảo vệ theo những lời giáo huấn chính yếu của đạo Phật. Cũng thế, ít nhất ba trăm năm sau cùng, chúng
tôi không có những vũ khí đúng thật của vũ khí.
Tây Tạng đã từ bỏ sự tiến hành chiến tranh như một công cụ của chính
sách quốc gia trong thế kỷ thứ sáu và thứ bảy, trong thời trị vì của ba quốc
vương vĩ đại thuần thành tín ngưỡng.
Trở
lại mối quan hệ giữa những cộng đồng phát triển khu vực và công tác giải trừ
quân bị, chúng tôi muốn gợi ý rằng “trái tim” của mỗi cộng đồng có thể là một
hay nhiều quốc gia mà đã quyết định trở thành những khu vực của hòa bình, những
vùng mà lực lượng quân sự bị cấm chỉ. Điều
này, một lần nữa, không chỉ là một giấc mơ.
Bốn thập niên trước đây, trong tháng mười hai 1948, Costa Rica đã giải
tán quân đội. Gần đây, 37 phần trăm dân
số Thụy Sĩ đã bỏ phiếu giải tán quân đội của họ. Chính quyền mới ở Tiệp Khắc đã quyết định
ngưng sự chế tạo và xuất cảng tất cả các loại vũ khí. Nếu dân chúng cũng chọn lựa như thế, một quốc
gia có thể từng bước căn bản thay đổi ngay bản chất tự nhiên của nó.
Những
vùng của hòa bình trong những cộng đồng khu vực sẽ phục vụ như những ốc đảo
kiên cố, vững vàng, ổn định. Trong khi
chi trả cho sự chia xẻ phí tổn cho bất cứ lực lượng quân sự chung xây dựng nên
bởi cộng đồng như một tổng thể, những khu vực hòa bình sẽ là những người tiên
phong, những kẽ hướng đạo của toàn bộ thế giới hòa bình và sẽ được tránh khỏi
những liên lụy đến bất cứ một cuộc xung đột nào. Nếu những cộng đồng khu vực được phát triển ở
Á Châu, Nam Mỹ Châu, Phi Châu và sự giải trừ quân bị tiến triển thế là một lực
lượng quân sự quốc tế từ tất cả mọi khu vực được hình thành, những khu vực hòa bình sẽ có thể mở rộng, lan
tỏa thanh bình khu chúng lớn mạnh.
Chúng
ta không cẩn phải nghĩ rằng chúng ta đang dự tính chương trình của một tương
lai xa vời khi chúng ta quan tâm điều này hay bất cứ dự kiến nào khác cho một
thế giới mới, hiệp tác hơn về chính trị, kinh tế và quân sự. Thí dụ,
Hội nghị mới bốn mươi tám viên về Tăng Cường An Ninh và Hiệp Tác Âu Châu đã dựa
trên căn bản của một sự liên minh không chỉ những quốc gia Đông và Tây Âu mà
cũng giữa những nước thuộc Cộng Đồng các Quốc Gia Độc Lập và Hoa Kỳ. Những sự kiện nổi bật này gần như loại bỏ hiểm
họa của một cuộc chiến chủ yếu giữa những siêu cường.
Chúng
tôi đã không bao gồm Liên Hiệp Quốc trong thảo luận này của kỷ nguyên hiện đại
bởi vì cả vai trò chính yếu xây dựng nên
một thế giới tốt đẹp hơn và khả năng to lớn của nó để hành động như thế đã được
biết đến quá rõ ràng. Bằng sự xác định,
Liên Hiệp Quốc phải ở vị trí ngay trung tâm của bất cứ những thay đổi chính yếu
nào xảy ra. Tuy thế, có thể nó cần cải
thiện cấu trúc của nó trong tương lai.
Chúng tôi luôn luôn có những hy vọng to lớn nhất cho Liên Hiệp Quốc, và
không có ý bình phẩm, chúng tôi muốn chỉ
ra rằng không khí chiến tranh lạnh sau thế chiến thứ hai được nhận thức dưới hiến
chương của nó đã thay đổi. Với sự thay đổi ấy đã mang đến một cơ hội dân
chủ xa hơn cho Liên Hiệp Quốc, đặc biệt là sự hơi độc quyền của năm thành viên
thường trực Hội Đồng Bảo An, nó nên có thêm
đại diện.
KẾT
LUẬN
Chúng
tôi muốn kết luận bằng tuyên bố rằng, tổng quát, chúng tôi cảm thấy lạc quan về
tương lai. Một số xu hướng gần đây báo
hiệu khả năng vĩ đại của chúng ta cho một thế giới tốt đẹp hơn. Như vào cuối những năm năm mươi, sáu mươi người
ta tin rằng chiến tranh là một điểu kiện không thể tránh khỏi của loài người. Đặc
biệt, Chiến Tranh Lạnh tăng cường ý kiến cho rằng những hệ thống chính trị đối
kháng chi có thể mâu thuẫn, đụng chạm, xung đột nhau mà không cạnh tranh hay ngay cả cộng tác. Giờ đây chỉ một số ít duy trì quan điểm
này. Ngày nay, nhân loại toàn hành tinh
đang quan tâm chân thành đến hòa bình thế giới.
Họ càng ít thích thú trong đề xuất ý thức hệ hơn và càng hứa cam kết
cùng tồn tại chung sống hơn. Đây là những
phát triển rất tích cực.
Cũng
thế, hàng nghìn năm qua người ta tin tưởng rằng chỉ có một tổ chức có thẩm quyền
áp dụng những phương pháp kỷ luật cứng nhắc mới có thể quản lý xã hội loài người. Tuy vậy,
con người có một khao khát bẩm sinh cho tự do và dân chủ, và hai năng lực
này đã hiện diện trong xung đột. Ngày
nay, thật rõ ràng điều nào đã thắng. Sự
phát sinh những chuyển động của “năng lực nhân dân” bất bạo động đã biểu hiện
không thể phủ nhận rằng loài người có thể không dung túng, không chịu đựng cũng
không thực hiện trách nhiệm hết sức dưới sự thống trị bạo ngược, chuyên chế, và
bất công. Điều thừa nhận này đại diện
cho một tiến trình đáng chú ý.
Một
phát triển hy vọng khác là sự phát triển tương hợp giữa khoa học và tôn
giáo. Trong suốt thế kỷ mười chin và nhiều
hơn trong thời đại của chúng ta, con người
bối rối sâu sắc bởi sự đối kháng giữa những quan điểm thế giới rõ ràng mâu thuẫn
này. Ngày nay, vật lý, sinh vật và tâm
lý học đã đạt đến những trình độ tinh vi như thế mà nhiều nhà nghiên cứu đang bắt
đầu hỏi những câu hỏi sâu sắc nhất về căn bản thiết yếu tự nhiên của vũ trụ và
đời sống, những câu hỏi giống như thế đã là sự quan tâm chính đến những tôn giáo. Vì vậy có một khả năng thực sự cho một quan
điểm thống nhất hơn. Cụ thể, nó dường như rằng một nhận thức mới của tâm và vật
đang hiện rõ nét. Phương Đông đã quan
tâm hơn với sự hiểu biết về tâm, Phương Tây với sự hiểu biết hơn về vật. Bây giờ Đông Tây đã gặp nhau, những quan điểm
tâm linh và vật chất này của đời sống trở nên hòa hiệp hơn.
Sự
thay đổi nhanh chóng trong thái độ của chúng ta đối với trái đất cũng là cội
nguồn của hy vọng. Chỉ mới gần đây thôi,
khoảng mười hay mười lăm năm trước, chúng ta tiêu thụ hoang phí tài nguyên vô
tư lự, như là chúng không có sự giới hạn, chúng là vô tận. Bây giờ, không chỉ những cá nhân mà ngay cả
những chính quyền cũng vậy, đang tìm kiếm một trật tự sinh thái mới. Chúng tôi thường đùa rằng, mặt trăng và những
ngôi sao trông rất xinh đẹp, thơ mộng, nhưng bất cứ ai trong chúng ta cố gắng để
sống trên ấy, chúng ta sẽ thật khốn cùng.
Hành tinh xanh này của chúng ta là một môi trường sống thú vị mà chúng
ta biết. Đời sống của nó là đời sống của
chúng ta; tương lai của nó là tương lai của chúng ta. Và mặc dù chúng tôi không tin rằng Trái Đất tự
nó là một sinh vật, nó quả thực hành động như bà mẹ của chúng ta, và, giống như
trẻ con, chúng ta tùy thuộc trên bà ta.
Bây giờ bà mẹ tự nhiên đang nói với chúng ta về hợp tác. Trên bề mặt những vấn đề của địa cầu như hiệu
ứng nhà xanh, và sự hư hỏng tầng ozone, những tổ chức cá nhân và những quốc gia
đơn độc thì không giúp được gì. Ngoại trừ
tất cả chúng ta hợp lại, không có giải pháp nào có thể được tìm ra. Bà mẹ của chúng ta đang dạy chúng ta một bài
học về trách nhiệm toàn cầu.
Chúng
tôi nghĩ chúng ta có thể nói rằng do bởi những bài học mà chúng ta bắt đầu để học,
thế kỷ hai mươi mốt sẽ được thân thiện hơn, hòa hiệp hơn, và ít tổn hại
hơn. Từ bi yêu thương, hạt giống của hòa
bình, sẽ có thể có thể trổ hoa. Chúng
tôi rất hy vọng. Cùng lúc, chúng tôi tin
tưởng rằng mỗi cá nhân có một trách nhiệm để hổ trợ hướng dẫn gia đình địa cầu
của chúng ta trong một chiều hướng đúng đắn.
Chỉ những ao ước tốt đẹp thôi thì không đủ; chúng ta phải đảm đương một
trách nhiệm. Những hành động rộng lớn của
con người nẩy sinh từ những khởi xướng cá nhân.
Nếu chúng ta cảm thấy rằng chúng không thể có một ảnh hưởng nhiều, người
kế tiếp cũng có thể trở nên thiếu can đảm và một cơ hội lớn sẽ bị mất đi. Mặt khác, mỗi chúng ta có thể làm gợi cảm hứng
cho người khác chỉ đơn giản bằng hành động phát triển động cơ vị tha của chúng
ta.
Chúng
tôi chắc rằng nhiều người ân cần, lương thiện và chân thành trên toàn thế giới đã nắm bắt những quan điểm mà chúng tôi lưu
tâm ở đây. Bất hạnh thay, không ai lắng
nghe họ. Mặc dù âm thinh của chúng tôi,
giọng nói của chúng tôi cũng có thể không ai chú ý như thế. Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi nên cố gắng nói
nhân danh họ. Dĩ nhiên, một số người có
thể cảm thấy rằng Dalai Lama quá tự tin để viết trong cách như thế này. Nhưng, vì chúng tôi nhận giải thưởng Nobel
Hòa Bình, chúng tôi nghĩ rằng mình có một trách nhiệm làm như thế. Nếu chúng tôi chỉ dùng tiền của giải Nobel và dùng nó như thế nào tùy thích, dường
như rằng có thể nó là lý do duy nhất mà chúng tôi đã dùng những từ ngữ đẹp đẻ
trong quá khứ là để nhận giải này! Tuy
nhiên, bây giờ chúng tôi đã nhận nó, chúng tôi
phải đền đáp danh dự ấy bằng sự tiếp tục bênh vực những chủ trương quan
điểm mà chúng tôi luôn luôn bày tỏ.
Chúng
tôi, vì là người, tin tưởng chân thành rằng những cá nhân có thể làm nên một sự
khác biệt trong xã hội. Vào những thởi
điểm thay đổi lớn lao của hiện tại như một sự kiện hiếm hoi trong lịch sử nhân
loại, nó tùy thuộc mỗi chúng ta làm hết sức mình để tạo nên một thế giới hạnh
phúc hơn.
|
First printed in India 1990
Revised version edited to reflect current political realities published 1992
Reprinted August 1992
Tuệ
Uyển chuyển ngữ
04-10-2008
No comments:
Post a Comment